Mất và được trong việc khai thác bô - xít Tây Nguyên
Posted On Tuesday, February 12, 2008 at at 8:04 AM by Bô-xít Tây Nguyên
Khai thác bô - xítnhư đang triển khai là đi theo một quy trình ngược. Về lâu dài là đang lấp ló một “Vedan” khổng lồ, toàn diện, vô phương cứu chữa, là sự phụ họa tiếp theo với thiên tai, kéo dài sự tụt hậu của cả nước - chuyên gia Nguyễn Trung, người vừa có thư gửi Thủ tướng kiến nghị tạm dừng dự án khai thác bô - xít Tây Nguyên viết. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
LTS: Mặc dù quy hoạch khổng lồ về khai thác quặng nhôm ở Tây Nguyên đã bắt đầu được triển khai, các nhà khoa học đang phản biện quyết liệt. Ngày 5-11-2008 các nhà khoa học và làm công tác nghiên cứu đã có thư gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước đề nghị tạm dừng khai thác bô - xít ở Tây Nguyên. Trước đó, trong hội thảo tại Gia Nghĩa - Đắc Nông ngày 22 và 23/10, nhiều chuyên gia cũng đã nêu lên những lý lẽ và phân tích cần thận trọng trong việc triển khai và mở rộng quy mô của đại dự án này.
Mặc dù trong một hai thập kỷ gần đây sản xuất nhôm trên thế giới tăng đều trong biên độ từ 5 - 10%/năm, song bản đồ sản xuất nhôm (hiểu theo nghĩa nơi có lò luyện nhôm - smelters) trên thế giới trong vòng hai, ba thập kỷ nay có nhiều thay đổi lớn: sản xuất giảm dần ở Tây Âu, một số nơi ở Bắc Mỹ và Bắc Thái Bình Dương, để chuyển mạnh vào các vùng kém phát triển hơn như Úc, Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc, Ấn Độ... Nguyên nhân cơ bản của sự chuyển dịch này là giá thành và vấn đề bảo vệ môi trường. Từ sự thay đổi nói trên của bản đồ sản xuất nhôm trên thế giới trong nửa thế kỷ trước, người làm chính sách của các tập đoàn, nhà nước... và các nhà nghiên cứu đã tổng kết: Để đi tới quyết định có sản xuất nhôm hay không, cần đáp ứng thỏa đáng những điều kiện sau đây - xếp theo thứ tự quan trọng của các yếu tố: 1. có nguồn điện dồi dào, 2. có nguồn nước dồi dào, 3. nơi khai thác có vị trí và địa thế hoang vắng thuận lợi cho giải quyết thỏa đáng vấn đề bảo vệ môi trường (nước thải và bùn đỏ), 4. có khả năng giảm xuống mức thấp nhất chi phí vận tải, 5. có trữ lượng bô - xít dồi dào với hàm lượng cho phép đạt 4/2/1 (4 tấn quặng làm ra 2 tấn alumina rồi từ đó ra 1 tấn nhôm, nếu không giá thành sẽ quá đắt), 6. có nguồn lao động rẻ. Ngoại trừ các vùng mỏ phong phú của Nga ở miền Trung Uran và cũng là nơi sản xuất chính về nhôm của quốc gia này và một vài nơi trong các nước CIS cũ (Liên bang các quốc gia độc lập - bao gồm Nga và một số nước trong Liên Xô cũ), việc khai thác bô - xít ở châu Âu hầu như đóng cửa từ cách đây nhiều thập kỷ. Nơi cung cấp quặng sơ chế alumina cho công nghiệp nhôm ở châu Âu hiện nay chủ yếu là Úc, Nam Mỹ và châu Phi. Trong vòng hai thập kỷ nay, sản xuất nhôm của châu Âu (trừ Nga) tăng không đáng kể, thậm chí có xu hướng giảm mạnh như ở các nước Đức, Pháp, Ý, riêng ở Anh từ nhiều năm nay không có số liệu thống kê (có lẽ hoàn toàn đóng cửa). Nguyên nhân chủ yếu khiến sản xuất nhôm ở châu Âu chững lại và giảm là do giá điện và vấn đề môi trường. Về điện cho sản xuất nhôm Để sản xuất 1 tấn nhôm từ quặng sơ chế alumina cần khoảng 14.500 kwh đến 15.000 kwh để điện phân, nghĩa là tương đương với lượng điện cho 1 gia đình trung bình dùng trong 20 năm trời! Riêng khối lượng điện hàng năm tiêu thụ cho sản xuất nhôm hiện nay trên thế giới còn lớn hơn hoặc tương đương với toàn bộ số lượng điện đang tiêu thụ hàng năm của cả châu Phi. Giá CIF quặng sơ chế alumina loại (12% bụi ceria) tại cảng Trung Quốc có lúc lên tới khoảng 447 - 540 USD/tấn, nay giảm nhiều (350 - 400 USD/tấn). Giá 1MKWh điện ở Trung Quốc là 50 USD (nghĩa là 5 cent 1 Kwh). Như vậy riêng chi phí cho 1 tấn nhôm mất khoảng 1100 USD tiền nguyên kiệu và 700 - 800 USD tiền điện, chưa kể chi phí sản xuất. Có thể nói không cường điệu lắm: đối với một số nước (điển hình là Iceland) việc làm ra nhôm để bán, thực chất một phần là cách để bán điện (chiếm 30% giá thành, thậm chí có thể hơn nữa tùy theo giá điện mua được!). Chuyên gia của những tập đoàn sản xuất nhôm lớn nhất nhì thế giới như RUSAL, ALCOA, ALCAN... đưa ra ý kiến: nếu không có giá điện khoảng 35 đến 40 USD/1MKWh (3,5 - 4 cent/Kwh) với đủ 6 yếu tố để làm nhôm như đã nêu trên, thì không thể nói là có điều kiện lý tưởng để sản xuất nhôm (Trung Quốc hiện đang sản xuất điện với giá 5 cent/kwh). Về bùn đỏ Quá trình sơ chế bô - xít để lấy alumina thường để lại tối thiểu là ½ trọng lượng quặng đã khái thác là bùn đỏ + khối lượng nước nhiễm bùn này trong quá trình tuyển rửa. Cả hai thành phần này - bùn và nước nhiễm bùn - vốn không thân thiện với môi trường, lại tồn đọng các hóa chất gây ăn mòn (đặc biệt là soude caustic), khiến chúng trở thành những vũng bùn lớn hầu như không có loài vi sinh nào sống được, hủy hoại bề mặt của đất và các mạch nước ngầm, gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường.
Việc luyện nhôm cũng gây ô nhiễm môi trường không ít. Cùng với giá điện đắt, đấy là 2 nguyên nhân chính khiến nhiều lò luyện nhôm ở Tây Âu và Bắc Mỹ tiếp tục đóng cửa.
Là “công xưởng thế giới”, nhu cầu về nhôm và sản xuất nhôm của Trung Quốc trong vòng một thập kỷ nay tăng đột biến. Trung Quốc chiếm khoảng 3% trữ lượng bô - xít thế giới (có tài liệu nói là 2,3%), song hiện nay hàng năm tiêu thụ trên 10% sản lượng nhôm của thế giới và còn tăng nhanh trong những năm tới. Liên tục trong gần 2 thập kỷ vừa qua, sản lượng nhôm của Trung Quốc tăng khoảng 6 -10%/năm trên cơ sở nhập xấp xỷ 50% nguyên liệu từ bên ngoài. Hiện nay sản xuất nhôm trên lãnh thổ Trung Quốc đạt khoảng 16 triệu tấn, nhiều gấp đôi châu Âu, hoặc bằng cả Mỹ và Tây Âu cộng lại, chỉ đứng thứ hai thế giới (sau Úc) và còn tiếp tục tăng nhanh. Thị trường cung cấp alumina cho Trung Quốc có thể nói là dồi dào, người cung cấp chủ yếu là Úc, châu Phi, Indonesia và Nam Mỹ; riêng châu Phi có những mỏ do Trung Quốc trực tiếp khai thác.
Khó khăn lớn nhất đối với Trung Quốc hiện nay là môi trường nơi khai thác bô - xít bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhiệt độ không khí tăng lên và tàn phá nghiêm trọng các vùng chung quanh. II. Được và mất đối với Việt Nam trong việc khai thác bô - xít ở Tây Nguyên 1. Lựa chọn con đường phát triển nào cho Việt Nam? Đấy là câu hỏi đầu tiên cần đặt ra, trước khi cân nhắc nên hay không nên, được và mất gì trong việc khai thác bô - xít tại Tây Nguyên. Trước hết, Việt Nam là một nước đất chật người đông, tài nguyên thiên nhiên đa dạng nhưng nhìn chung không ra tấm ra món và nằm không tập trung. Đặc biệt lại là nước đi sau, với tình trạng kinh tế nghèo và lạc hậu, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị vừa rất thuận lợi nhưng cũng rất nhạy cảm. Thực tế này đòi hỏi phải cân nhắc thấu đáo mọi bề trong việc lựa chọn chiến lược phát triển. Với một dân cư 254 người/km2, Việt Nam có mật độ dân số đứng sau Ấn Độ (336/km2), gần ngang với Philippines (277/km2), nhưng gấp hơn 5 lần mật độ dân số cả thế giới (45,2 người/km2) và gần gấp 3 lần mật độ dân số châu Á (89/km2), cao hơn các nước Trung Quốc (138/km2), Thái Lan (125/km2), Malaysia (84/km2) là các quốc gia vừa có quan hệ kinh tế mật thiết với nước ta, vừa là các đối thủ cạnh tranh... Đất chật người đông như vậy, đứng sát nách cái “công xưởng thế giới”, lại ở vào khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế giới, Việt Nam đứng trước những thách thức rất lớn trong phát triển và cạnh tranh kinh tế. Sau 32 năm xây dựng trong hòa bình, trong đó có 10 năm đầu khủng hoảng và 22 năm đổi mới, Việt Nam vẫn là nước nghèo nhất so với các nước ASEAN. So với Singapore, Malaysia và Thái Lan, sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta rất yếu và có khoảng cách lớn - ví dụ: so với Thái Lan hiện nay khoảng cách này có thể là 20 năm, so với Malaysia và Singpore còn xa hơn nữa. Việt Nam cũng bị Trung Quốc bỏ lại rất xa về mọi phương diện, và trên thực tế đang chịu sức ép rất lớn nhiều mặt, đặc biệt là sức ép của nền kinh tế Trung Quốc - và điều này cũng là rất tự nhiên. Trong bối cảnh như vậy, cuộc sống chỉ dành lại cho Việt Nam câu hỏi để trả lời: Trong tình thế này, ứng xử hay lựa chọn con đường phát triển nào là thông minh nhất cho Việt Nam? Là nước đi sau, đất chật người đông, ở vào khu vực phát triển năng động và cạnh tranh quyết liệt như thế, dù lựa chọn con đường phát triển nào, sản phẩm gì.., để tồn tại được và trở nên giầu có, kinh tế Việt Nam chỉ có thể dựa trên (a)phát huy nguồn lực con người và (b)tìm cách làm ra ngày càng nhiều của cải trên đất nơi mình đang sinh sống. Xin nhấn mạnh: Là bằng sản xuất kinh doanh làm ra ngày càng nhiều của cải trên đất, chứ không phải dưới đất - với nghĩa là đào đất (như khai thác khoáng sản) lấy tài nguyên không tái tạo được đem đi bán và bán luôn cả môi trường tự nhiên, cả không gian sinh sống. Thực tế khách quan khắc nghiệt của cuộc sống đòi hỏi như vậy. Phát huy nguồn lực con người để đẩy mạnh làm ăn trên đất là con đường sống và phát triển của nước ta, làm gì cũng không được xa dời nguyên lý này. Nói một cách hình ảnh, đấy là đòi hỏi: Nước ta cần tìm cho ra một chiến lược phát triển sao cho với con người của mình, trên mỗi thước vuông của đất nước mình, có thể làm ra lâu dài và ngày càng nhiều của cải trong thế giới ngày càng cạnh tranh quyết liệt này! Chúng ta không thể đào đất đem đi bán - kể cả dưới hình thức khai thác khoáng sản - để vừa thu hẹp và vừa hủy hoại không gian sinh sống vốn đã vô cùng chật hẹp so với dân số nước ta, lại vừa tạo ra cấu trúc kinh tế giam hãm đất nước trong lạc hậu, giữa lúc kinh tế ngày nay là của thời đại khoa học công nghệ và kỹ thuật, thời đại kinh tế tri thức và thời đại toàn cầu hóa. Than và dầu xuất đã quá nhiều rồi, chẳng bao lâu nữa, có thể ngay những năm đầu của thập kỷ 2010, nước ta sẽ phải nhập những thứ này. Hơn nữa, không phải chỉ đối với sản phẩm bô - xít, ở vào đầu thế kỷ 21 này, là nước đi sau, mà lại chú trọng phát triển kinh tế nguyên liệu, tạo ra cấu trúc kinh tế mang nặng các sản phẩm thượng nguồn - bất luận nó là gì: dầu thô, than, sắt, gỗ, bột giấy, xi-măng... - thì sẽ có nguy cơ: Càng phát triển càng tụt hậu, càng đánh mất hai lợi thế cạnh tranh mạnh nhất, quý nhất, và cũng là hai lợi thế duy nhất nước ta có được: con người và vị trí địa lý kinh tế lý tưởng (đồng thời cũng là vị trí đầy thách thức đầu sóng ngọn gió của các sức ép nhìn theo địa kinh tế và địa chính trị). Rồi đây, vào khoảng 2020, 2050 mật độ dân số nước ta còn cao hơn nữa, có thể gấp đôi hiện nay. Rồi hiệu ứng nhà kính vừa gây thiên tai tàn phá, vừa thu hẹp diện tích đất đai con người có thể sinh sống của nhân dân ta, đòi hỏi phải phát huy 2 lợi thế duy nhất nói trên của đất nước sẽ càng trở nên gay gắt hơn. Vì ngay từ đầu chậm nhận thức ra hai lợi thế duy nhất này của đất nước, cho nên thành tựu phát triển kinh tế đất nước đạt được 32 năm qua dù là rất to lớn nếu đem ta ra so với ta, song vẫn là nhỏ và là quá chậm, nếu so với những gì nhiều quốc gia khác đã làm được trong cùng một chiều dài thời gian như vậy (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan...), hoặc so với đòi của bảo toàn độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia. Đất nước vẫn đang đứng trước thực tế: Càng phát triển, khoảng cách nhiều mặt giữa nước ta và những nước cần so sánh (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan...) đang rộng thêm mãi ra, nguy cơ tụt hậu đang tăng lên chứ không giảm đi. Với đỉnh cao đạt được năm 2007, nước ta đã hoàn thành thời kỳ phát triển kinh tế theo chiều rộng. Trong tình hình như vậy mà tiếp tục đi sâu vào kinh tế nguyên liệu thì có nghĩa là tự mua dây thắt cổ mình, bởi vì các yếu tố để tiếp tục phát triển theo chiều rộng đã được khai thác tới ngưỡng không cho phép vượt qua. Tình hình hiển nhiên đã chín muồi: kinh tế đất nước phải chuyển sang một giai đoạn phát triển cao hơn - giai đoạn phát triển theo chiều sâu, chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người và khai thác hội nhập. Tiếp tục phát triển theo chiều rộng như vừa qua sẽ đi tới đổ vỡ. Lựa chọn con đường phát triển theo chiều sâu chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người và khai thác hội nhập, thì không thể lựa chọn đi sâu vào kinh tế nguyên liệu, càng không thể đi vào khai thác bô - xít ở Tây Nguyên như đang bắt đầu tiến hành. 2. Còn phương án phát triển nào tốt hơn cho Tây Nguyên? Với cách nhìn vấn đề nêu trong câu hỏi 1, logic tiếp theo là phải đặt ra câu hỏi 2: Ngoài khai thác bô - xít, còn phương án phát triển kinh tế nào tốt hơn cho Tây Nguyên không? Đã có nhiều tài liệu nói về tiềm năng kinh tế to lớn của Tây Nguyên và tầm quan trọng đặc biệt của nó đối với an ninh quốc phòng của cả nước. Điều này cũng có nghĩa là Tây Nguyên rất nhạy cảm đối với an ninh quốc phòng của cả nước. Dưới đây xin lưu ý thêm một số đặc thù của Tây Nguyên để góp phần vào việc tìm hướng đi cho vùng này. Lựa chọn hướng phát triển Tây Nguyên xanh có lẽ là thích hợp nhất cho việc phát huy các tiềm năng của Tây Nguyên, tạo khả năng phát triển bền vững và gìn giữ môi trường, gìn giữ nguồn nước - không những không thể thiếu được để nuôi sống con người và tự nhiên toàn vùng Tây Nguyên, mà còn có lợi cho cả toàn vùng chung quanh, riêng phía Nam xuống tận miền Đông Nam Bộ. Ngoài Đà Lạt, Tây Nguyên còn một số các địa điểm có độ cao và địa hình tương tự như Đà Lạt, có thể cho phép tạo ra trên Tây Nguyên có thêm một hay hai Đà Lạt mới, ví dụ như Mang Đen (Komplong, Kontum), mở rộng Đà Lạt ra Đan Kia vân... vân... Rất nên tiến hành khảo sát kỹ những nơi có độ cao từ 800-1000m trở lên trên Tây Nguyên để làm rõ tiềm năng này. Điều cần đặc biệt quan tâm là sự tàn phá môi trường diễn ra đến nay ở Tây Nguyên đã vượt quá mức cho phép. Riêng Lâm Đồng có 67 nghìn ha rừng thông thì đã bị chặt sạch 52 nghìn ha với lý do thông già, mà lẽ ra chỉ nên khai thác tỉa bỏ những cây có bệnh và đồng thời phải trồng bổ sung để bảo toàn lá phổi của Tây Nguyên. Hiển nhiên là một thiếu sót lớn không thể bỏ qua là: Cho đến hôm nay Nhà nước ta vẫn chưa có một chiến lược phát triển Tây Nguyên được xây dựng theo hướng đi của thời đại, trên cơ sở những thành tựu khoa học và công nghệ mới nhất của văn minh nhân loại, cũng như trên cơ sở nhận thức đầy đủ những nguy cơ mới của biến đổi khí hậu và môi trường, những thách thức và cơ hội của hội nhập vào nền kinh tế thế giới đầy biến động trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay. Chưa có một chiến lược tổng thể với cách nhìn như vậy cho phát triển Tây Nguyên mà đã đi vào khai thác bô - xít ở Tây Nguyên thì không khác gì hôm nay bắt đầu chặt đứt tương lai phát triển của Tây Nguyên. Vì những đặc thù nổi bật và tầm quan trọng như vậy, phát triển Tây Nguyên là nhiệm vụ của cả nước, phải do chính quyền Trung ương (Nhà nước) trực tiếp nắm lấy, phân cấp gì cho địa phương cũng phải trong khuôn khổ chiến lược phát triển do chính quyền Trung ương xây dựng với tinh thần vừa nêu trên, phân định rõ Trung ương (cả nước) phải làm gì và từng tỉnh Tây Nguyên phải làm gì. Không có Tây Nguyên của Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông hay Lâm Đồng, mà chỉ có Tây Nguyên của cả nước, Tây Nguyên của Việt Nam! Càng không thể có Tây Nguyên của một ngành hay tập đoàn nào. Hơn nữa, phát triển Tây Nguyên cần bàn bạc kỹ với tất cả các tỉnh chung quanh. Một lần nữa xin nhấn mạnh: Sự thật là nước ta thiếu hẳn một chiến lược phát triển đúng đắn làm nền tảng và căn cứ cho chiến lược tổng thể phát triển Tây Nguyên. Không thể kéo dài sự chậm trễ này nữa. Chiến lược Công nhiêp hóa - hiện đại hóa như đã đề ra và đang theo đuổi vừa còn nhiều điểm chưa rõ, vừa không thích ứng với tình hình mới: Đất nước đã kết thúc một giai đoạn phát triển, tình hình kinh tế và chính trị thế giới có nhiều thay đổi lớn mang tính một bước ngoặt. 3. Nhận xét về các dự án khai thác bô - xít đang triển khai Ngoài những nhận xét đã nêu trong Kiến nghị ngày 05-11-2008 và trong Hội thảo Đắc Nông, dưới đây xin trình bầy thêm một số khía cạnh. Nét chung nhất là việc quyết định khai thác bô - xít ở Tây Nguyên không được cân nhắc theo 6 yếu tố đã được đúc kết ra từ kinh nghiệm khai thác bô - xít trên thế giới. Chủ trương tiến hành khai thác bô - xít ở Tây Nguyên thực ra chủ yếu chỉ dựa trên hai yếu tố cuối cùng và có tầm quan trọng thấp nhất: có quặng, có lao động rẻ; 4 yếu tố đầu quan trọng hơn và mới thực sự là những yếu tố quyết định thì chỉ được xem xét để cho qua, thực tế là bỏ qua. Có thể khẳng định từ nay đến năm 2020 - 2025 nước ta không thể có điện cho sản xuất nhôm, cho dù đến lúc đó có thể đã có điện hạt nhân. Ngay trước mắt, kể cả trường hợp 13 dự án điện tập đoàn EVN “nhả ra” với lý do thiếu vốn vẫn được các tập đoàn khác cáng đáng, khó có thể nói đến năm 2020 ta có thể đáp ứng đủ yêu cầu về điện của cả nước - chưa tính đến chuyện điện cho luyện nhôm ở Tây Nguyên. Giả định rằng kiên quyết đầu tư một số công trình điện thủy lợi hay nhiệt điện chỉ để cho phục vụ riêng cho luyện nhôm ở Tây Nguyên thì khó mà đạt được yêu cầu 5 cent (USD)/kwh với một lượng điện dồi dào để có thể cung ứng dù chỉ cho một (1) lò luyện nhôm, công suất tối thiểu phải có là 100.000 tấn/năm, nghĩa là ít nhất cần phải có khoảng 1,5 tỷ kwh cho luyện một lò như vậy - tương đương với 1/6 hay 1/5 công suất một năm của nhà máy thủy điện Hòa Bình. Tất cả những điều vừa trình bày cho thấy từ nay đến năm 2020 hoặc 2025 ta không có khả năng tự sản xuất 100.000 tấn nhôm có hiệu quả kinh tế cao và cạnh tranh được trên thị trường. Nghĩa là, nếu bây giờ quyết khai thác bô - xít Tây Nguyên, thì mãi cho đến năm 2020-2025 ta chỉ có khả năng làm ra alumina để xuất khẩu, và phải gác lại dài hạn hơn mơ ước trở thành quốc gia xuất khẩu nhôm. Một bài toán nữa chưa có lời giải là vấn đề nước ở Tây Nguyên cho bô - xít: Lấy ở đâu? và xử lý nước bùn thế nào ở nơi cao và có độ dốc lớn? Các thông tin về công nghiệp nhôm trên thế giới cho thấy tùy công nghệ sử dụng, lượng nước cần thiết cho chế biến được 1 tấn alumina thông thường là 24 m3 - nếu có lắp đặt thêm công nghệ tái tạo lại nước đã sử dụng thì có thể giảm xuống còn 6 m3. Hiệu quả kinh tế đầy nghi ngờ Hiện nay, sản xuất ra một tấn alumina (quặng bô - xít sơ chế) cần phải có khoảng một tấn than; điều này có nghĩa phải chuyển một lượng than lớn lên Tây Nguyên, đi bằng đường nào? Hoặc phải có một lượng điện tương ứng. Nếu tính đủ cả chi phi cho đầu tư kết cấu hạ tầng, chi phí hoàn thổ và phục hồi môi trường đúng với yêu cầu mà cấu tạo địa hình Tây Nguyên đòi hỏi sau khi khai thác, liệu giá thành sản xuất alumina của Tây Nguyên có thể giữ được khoảng 300 - 350 USD/tấn (giá FOB) hoặc thấp hơn nữa để đứng vững được trên thị trường hay không? Muốn đạt giá thành trên, ngoài tổng chi phí cho khai thác, hàm lượng nhôm trong quặng phải đạt công thức 4/2/1. Giả thiết rằng hàm lượng nhôm trong quặng thấp, ví dụ có thể là <4/<2/1,> Hơn thế nữa, alumina của ta làm ra ai sẽ mua? Ta không thể đem alumina bán cho Tây Âu và Bắc Mỹ được vì xa quá, cước phí vận tải tốn kém và ở đấy sản xuất nhôm đang bị thu hẹp. Nhật Bản là nước nhập nhôm (chứ không phải là alumina) để tiêu dùng, để luyện nhôm tinh khiết và chế tạo các hợp kim cao cấp khác. Nhìn quanh ta: Cường quốc xuất khẩu nhôm là New Zealand, đạt kim ngạch khoảng 1,5 tỷ USD - tương đương với xuất khẩu thủy sản của nước ta, song đã có nguồn nhập alumina ổn định từ Úc, giá cả có sức cạnh tranh và chất lượng cao. Tình hình cho thấy, nếu ta quyết định sản xuất ra alumina, nước ta có thể sẽ rơi vào tình thế: Thị trường quanh ta chỉ có một người mua là Trung Quốc, trong khi đó người bán rất nhiều và đều mạnh hơn ta (Úc, châu Phi, Nam Mỹ...). Thực tế này sẽ tạo ra cho alumina của ta sự lệ thuộc nguy hiểm. Giả thử rằng quyết định vào năm 2020 - 2025 nước ta mới bắt đầu đi vào công nghiệp nhôm, có thể lúc đó - nhờ sự phát triển mọi mặt của đất nước và những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật và công nghệ - tình hình sẽ cho phép nước ta một sự lựa chọn khác: đi thẳng vào công nghiệp nhôm cao cấp (nhôm tinh khiết, các hợp kim quý...), trên cơ sở nguyên liệu nhập hay tại chỗ, với những điều kiện kinh tế và những điều kiện thân thiện với môi trường có lợi hơn rất nhiều so với hiện nay. Nghĩa là lúc này vội vã hay nôn nóng là tự ăn vào chính mình! Ngay ở Trung Quốc, việc phát triển công nghiệp nhôm ngoài đòi hỏi tất yếu là đáp ứng nhu cầu tiêu thụ mỗi năm khoảng 15 triệu tấn không có cách gì nhập đủ được, Trung Quốc gắn nhiệm vụ này với việc nhiệm vụ tranh thủ cơ hội trở thành cường quốc xuất khẩu ô-tô và máy bay. Rõ ràng thời buổi ngày nay quốc gia nào có ý thức về cạnh tranh đều phải “gắn” như vậy, nếu không là tự đào thải mình. Tìm cách gắn với cái hiện đại và sức cạnh tranh cao, chứ không phải gắn với tài nguyên không tái tạo được và lao động cơ bắp. Quy trình lộn ngược Việc triển khai các dự án khai thác bô - xít ở Tây Nguyên ngoài việc thiếu chiến lược phát triển tổng thể của vùng này làm nền tảng, có nguy cơ đang diễn ra theo quy trình lộn ngược: Kết cấu hạ tầng phải có cho khai thác và cho bảo vệ môi trường không được xây dựng trước khi tiến hành triển khai các công trình khai thác và tuyển + sơ chế quặng. Các kế hoạch giải quyết các vấn đề an sinh xã hội có liên quan đến toàn vùng Tây Nguyên hoặc là mới có ở mức độ ý tưởng, hoặc là chưa nghĩ đến, hoặc chưa có! Chưa thấy các dự án khai thác alumina ở Tây Nguyên có các nguồn điện và nước của riêng mình, trước mắt vẫn là tính chuyện sử dụng các đầu vào này (input) cho sản xuất trên cơ sở các nguồn hiện có tài chỗ. Cách tiếp cận này rất nguy hại cho Tây Nguyên, trong khi Tây Nguyên đang thiếu trầm trọng điện và nước cho con người, nông nghiệp và cây công nghiệp. Vấn đề vận tải một khối lượng lớn quặng sơ chế alumina (ước lượng từ 0,6 đến 1 triệu tấn/năm) từ Tây Nguyên xuống cảng biển trong nhiều năm sau khi bắt đầu khai thác, trù tính trong thời chưa có đường sắt và cảng chuyên dụng, sẽ dử dụng đường bộ và một hay nhiều cảng hiện có. Việc xử lý bùn đỏ và nước thải nêu trong các đề án khai thác bô - xít đầy nghi ngờ, vì hai lý do: (a)rất tốn kém, (b)khó có thể làm được như có thể viết ra trên giấy - hiện tượng này đã từng xảy ra tại nhiều nước trên thế giới - kể cả ở Úc, Canada....
Vấn đề nguy hiểm nhất trong quy trình lộn ngược này là chưa có một chương trình khả thi và được phê duyệt ở cấp quốc gia cho việc bảo vệ, phục hồi môi trường nơi khai thác và cho toàn vùng, thiếu hẳn sự bàn bạc với các tỉnh, các địa phương chung quanh và các Bộ, ngành có liên quan về việc phối hợp, hợp tác với nhau xử lý các hệ quả của khai thác bô - xít có thể xảy ra. Lẽ ra vấn đề nguy hiểm nhất này phải được xử lý đầu tiên trước khi quyết định sẽ làm hay không làm alumina ở Tây Nguyên. Việc làm mới? Báo chí nói dự án khai thác bô - xít ở Tây Nguyên đã động thổ (Đắc Nông) sẽ đem lại 16 nghìn việc làm mới. Nhìn theo cái giá Tây nguyên phải trả, con số này thật quá bé nhỏ so với dân số Tây Nguyên - năm 1975 lả 1,3 triệu người và hiện nay là gần 4 triệu người. Năm 1976 Tây Nguyên có khoảng 1,2 triệu người sinh sống, hiện nay là gần 4 triệu. Trong một môi trường dân số tăng nhanh như vậy- nhất là do tăng dân số cơ học và còn đang tiếp tục tăng, thêm một hai chục nghìn việc làm mới cho Tây Nguyên nhờ khai thác bô - xít như vậy, có giải quyết được vấn đề đời sống của Tây Nguyên không? Trong khi đó một không gian dân cư sinh sống đáng kể sẽ bị việc khai thác khoáng sản này cướp đi. Nên lựa chọn cái gì? Cần lưu ý: Con số 16 nghìn việc làm có thể tạo ra nhờ khai thác bô - xít như báo chí nêu lên, chủ yếu sẽ là lao động thủ công. Thực tế ở Việt Nam và trên thế giới cho thấy khai thác mỏ càng sử dụng nhiều lao động thủ công, hủy hoại môi trường càng lớn. Trên hết cả, xin hãy đi khảo sát đời sống thợ tại các mỏ than, mỏ đá, các mỏ khoáng sản khác ở khắp nước ta để suy nghĩ xem: Họ đang sống như thế nào? Đây có phải là loại việc làm đáng tạo ra của thời kỳ đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại thời hội nhập ngày nay hay không? Vân... vân... Muốn phát triển Tây Nguyên bền vững, cần trả lời thỏa đáng nhiều câu hỏi khác tương tự như thế, kể cả về an ninh quốc phòng và đối ngoại. Kết luận Khai thác khoáng sản đem bán - dù là than, dầu hay là gì nữa - lúc này đối với nước ta là cực chẳng đã, là hạ sách, trong nhiều trường hợp là thất sách, không nên mở rộng thêm, mà cần thay đổi tình hình này càng sớm càng tốt, kéo dài là chuốc thêm nghèo khó và tụt hậu. Khai thác bô - xít ở Tây Nguyên như đang triển khai , sẽ (1)hủy hoại môi trường đồng thời làm biến đổi khí hậu toàn bộ vùng này và chung quanh, (2)thu hẹp vùng dân cư sinh sống, (3)gây phương hại cho an ninh của đất nước. Khai thác bô - xít như đang triển khai, về lâu dài là đang lấp ló một “Vedan” khổng lồ, toàn diện, vô phương cứu chữa, là sự phụ họa tiếp theo với thiên tai, để làm hỏng đất nước, kéo dài nữa sự tụt hậu của cả nước. Liên quan đến Vedan, ngày 13-11-2008 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói trước Quốc hội: “Chính phủ cũng chủ trương ngăn chặn những vi phạm mới, không vì lợi ích trước mắt mà hy sinh môi trường. Vừa rồi Chính phủ đã từ chối dự án thép trị giá 4 - 5 tỷ USD vì vấn đề môi trường”. Mong rằng tinh thần này được vận dụng cho bô - xít Tây Nguyên. Với nguy cơ triển khai theo quy trình lộn ngược như đang thực hiện, chương trình khai thác bô - xít Tây Nguyên có thể vừa để lại nhiều hệ quả lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, vừa tạo ra cho nước ta sự lệ thuộc mới không thể chấp nhận. Khai thác bô - xít như đang triển khai nguy hiểm tới mức những sai lầm có nguy cơ gây ra những tổn thất lớn lao mang trọng tội đối với quốc gia, thiết nghĩ nên cân nhắc rất cẩn trọng với tầm nhìn dài hạn. Vì vậy xin đề nghị lãnh đạo Đảng và Nhà nước chỉ thị cho tạm dừng việc triển khai chương trình này, thực hiện các nghiên cứu cho phép đi tới những quyết định thỏa đáng cho tương lai phát triển của Tây Nguyên, trước khi đi tới quyết định nên dừng hẳn trong một thời gian nhất định việc khai thác bô - xít ở Tây Nguyên, hay nên đi tiếp và đi tiếp như thế nào. Mong trí tuệ của cả nước được huy động, và mong khai thác kinh nghiệm của cả thế giới cho việc này. Xin trân trọng đề nghị Bộ Chính trị và Chính phủ cử một đoàn có thẩm quyền về kiến thức khoa học và kinh tế, độc lập với các Bộ, ngành và tập đoàn, - a: đi khảo sát một số nơi chứa bùn đỏ ở Ấn Độ, châu Phi, hay một vài nơi nào khác để nghiên cứu những hệ lụy trong việc khai thác bô - xít, về báo cáo công khai trong nước để tham khảo ý kiến nhân dân trước khi đi tới quyết định cuối cùng. - b: đi khảo sát dự án đầu tư của Trung Quốc ký với Úc khai thác bô - xít ở mỏ Aurukun, Queensland rồi so sánh với những dự án ta đã ký kết và rút ra những kết luận cần thiết cho Tây Nguyên. Con đường đi lên của nước ta là tìm cách phát huy con người Việt Nam tự chủ, có ý chí nhẫn nại làm giầu bền vững, lâu dài trên từng thước vuông đất của Tổ quốc chúng ta - bằng trí tuệ và lao động cần cù sáng tạo, chứ không phải bằng cách đào bới khoáng sản đem đi bán. Xin đừng giây phút nào quên nước ta đất chật người đông, ở vào vị trí địa lý và vị thế đầy thách thức ác nghiệt. Riêng trong nửa sau của thế kỷ 20 nước ta phải gánh chịu 5 cuộc chiến tranh khốc liệt, và hôm nay bước vào thế kỷ 21 với sự lạc hậu và tụt hậu kinh hoàng so với thế giới. Cần nhìn vào con đường đất nước phải đi để thấy hết sự thật này! Phải biến thách thức thành cơ hội. Đó là con đường duy nhất để tồn tại và phát triển. Vị trí địa lý và vị thế nước ta tiềm tàng một cơ hội như thế! Tất cả trước hết phụ thuộc vào cái đầu và ý chí, chứ không phải cơ bắp. Thừa hưởng những kinh nghiệm của các nước đi trước trong hai thế kỷ trước, một số nước NICs đã tận dụng được lợi thế nước đi sau và đã thành công - con đường họ đi bắt đầu từ giáo dục... Tại sao nó không thể là con đường của chúng ta? (tham khảo thêm: “Lối đi duy nhất để Việt Nam thoát nghèo” và "Chàng trai 22 tuổi không thể sống trong quần áo thiếu niên" ). Thế hệ chúng ta hôm nay cần làm mọi việc để tránh phải đi vào lịch sử với “tội danh” là thế hệ hủy hoại Tây Nguyên. Trách nhiệm của mỗi người Việt Nam thế hệ hôm nay đối với phát triển và tương lai của Tây Nguyên là không thể thoái thác.
Tài liệu tham khảo 1. Các websites về công nghiệp và thương mại aluminum của các quốc gia được nhắc tới trong tham luận này. 2. Các báo cáo năm của UNDP, WTO năm 2005, 2006. 3. Các bài về công nghiệp nhôm của Earth Policy Institute - USA 2003 - 2006. 4. Các báo cáo chuyên đề hàng năm của ALCOA - http://www.alcoa.com/global/en/investment/annual_rep.asp 5. bô - xít AND ALUMINA PROCESSING METHOD AND TAILINGS PRODUCTION - http://www.miro.co.uk/tailsafe-if/restricted/docs/wp1_2_6_bô - xít.pdf 6. Các báo cáo chuyên đề hàng năm của UC RUSAL http://www.rusal.ru/en/ 7. European Aluminum Association Report - 2007. 8. bô - xít and Aluminum: A Cradle to Grave Analysis) - Nguồn: bss.sfsu.edu/raquelrp/projects/bô - xít%20and%20Aluminum.ppt 9. “MATERIALS AND THE ENVIRONMENT” Chapter 6. Designing a New Materials Economy Lester R. Brown 10. Eco-Economy: Building an Economy for the Earth, W.W. Norton & Co., NY: 2001. 11. Ecological restoration of land with particular reference to the mining of metals and industrial minerals: A review of theory and practice by J.A. Cooke and M.S. Johnson - nguồn: pubs.nrc-cnrc.gc.ca/rp/rppdf/a01-014.pdf 12. Canadian Mining Companies Destroy Environment and Community Resources in Ghana - nguồn http://www.miningwatch.ca/updir/Cdn_Cos_in_Ghana.pdf 13. Dương Danh Dy - “Tìm hiểu tình trạng ô nhiễm môi trường khi khai thác bauxit tại một vài nơi ở Trung Quốc”. 14. Nguyễn Trung, (1)“Ngã ba 2007” VietnamNet, 25-12-2007, (2) “Lối đi duy nhất để Việt Nam thoát nghèo” VNN.VN 24/10/2008 10:35, và (3)"Chàng trai 22 tuổi không thể sống trong quần áo thiếu niên" VNN.VN 31/10/2008 10:11.
|