Mất và được trong việc khai thác bô - xít Tây Nguyên

Link gốc: http://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5470/index.aspx

Khai thác bô - xítnhư đang triển khai là đi theo một quy trình ngược. Về lâu dài là đang lấp ló một “Vedan” khổng lồ, toàn diện, vô phương cứu chữa, là sự phụ họa tiếp theo với thiên tai, kéo dài sự tụt hậu của cả nước - chuyên gia Nguyễn Trung, người vừa có thư gửi Thủ tướng kiến nghị tạm dừng dự án khai thác bô - xít Tây Nguyên viết.

LTS: Mặc dù quy hoạch khổng lồ về khai thác quặng nhôm ở Tây Nguyên đã bắt đầu được triển khai, các nhà khoa học đang phản biện quyết liệt. Ngày 5-11-2008 các nhà khoa học và làm công tác nghiên cứu đã có thư gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước đề nghị tạm dừng khai thác bô - xít ở Tây Nguyên. Trước đó, trong hội thảo tại Gia Nghĩa - Đắc Nông ngày 22 và 23/10, nhiều chuyên gia cũng đã nêu lên những lý lẽ và phân tích cần thận trọng trong việc triển khai và mở rộng quy mô của đại dự án này.


Tôn trọng tính phản biện và đa chiều của thông tin, Tuần Việt Nam sẽ lần lượt đăng tải phân tích, quan điểm nhiều chiều của các nhà khoa học cũng như các nhà quản lý, với mong muốn góp thêm ý kiến cho các nhà hoạch định chính sách trong việc tìm ra một cách thức tiếp cận phù hợp nhất trong khai thác bô - xít, đảm bảo sự phát triển bền vững của Tây Nguyên, một vị trí địa chính trị - an ninh – văn hóa quan trọng của Việt Nam.



I.
Thị trường thế giới về nhôm (aluminum)

Nhôm (aluminum) là kim loại nhẹ, ngày càng chiếm vị trí quan trọng kinh tế thế giới. Năm 1991 kinh tế thế giới tiêu thụ khoảng 24 triệu tấn nhôm, mười lăm năm sau (2005) là 63 triệu tấn, hiện nay là xấp xỷ 90 triệu tấn (số tròn); xu thế này sẽ tiếp tục duy trì, do có nhiều nền kinh tế mới nổi lên - đặc biệt là Trung Quốc, và do nhôm ngày càng thay thế nhiều loại vật liệu và kim lọai khác nhờ tiến bộ khoa học công nghệ và kỹ thuật. Tuy nhiên thị trường nhôm dồi dào, vì nguồn cung rất phong phú.

Trữ lượng quặng bô - xít trên thế giới rất lớn (có thể là hàng trăm tỷ tấn) so với nhu cầu khai thác và khả năng khai thác, lại nằm rải rác nhiều nơi trên thế giới, do đó dù được coi là quý, nhưng nhôm không phải là kim loại hiếm. Tương tự như mặt hàng dầu lửa, giá nhôm cũng dao động theo cung cầu và theo biến động của tình hình kinh tế thế giới; tháng 3-2008 giá nhôm trên thị trường thế giới là 3380 USD/tấn, đến tháng 10-2008 chỉ còn 2850 USD/tấn.

Mặc dù trong một hai thập kỷ gần đây sản xuất nhôm trên thế giới tăng đều trong biên độ từ 5 - 10%/năm, song bản đồ sản xuất nhôm (hiểu theo nghĩa nơi có lò luyện nhôm - smelters) trên thế giới trong vòng hai, ba thập kỷ nay có nhiều thay đổi lớn: sản xuất giảm dần ở Tây Âu, một số nơi ở Bắc Mỹ và Bắc Thái Bình Dương, để chuyển mạnh vào các vùng kém phát triển hơn như Úc, Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc, Ấn Độ... Nguyên nhân cơ bản của sự chuyển dịch này là giá thành và vấn đề bảo vệ môi trường.

Từ sự thay đổi nói trên của bản đồ sản xuất nhôm trên thế giới trong nửa thế kỷ trước, người làm chính sách của các tập đoàn, nhà nước... và các nhà nghiên cứu đã tổng kết:

Để đi tới quyết định có sản xuất nhôm hay không, cần đáp ứng thỏa đáng những điều kiện sau đây - xếp theo thứ tự quan trọng của các yếu tố:

1. có nguồn điện dồi dào,

2. có nguồn nước dồi dào,

3. nơi khai thác có vị trí và địa thế hoang vắng thuận lợi cho giải quyết thỏa đáng vấn đề bảo vệ môi trường (nước thải và bùn đỏ),

4. có khả năng giảm xuống mức thấp nhất chi phí vận tải,

5. có trữ lượng bô - xít dồi dào với hàm lượng cho phép đạt 4/2/1 (4 tấn quặng làm ra 2 tấn alumina rồi từ đó ra 1 tấn nhôm, nếu không giá thành sẽ quá đắt),

6. có nguồn lao động rẻ.


Ngoại trừ các vùng mỏ phong phú của Nga ở miền Trung Uran và cũng là nơi sản xuất chính về nhôm của quốc gia này và một vài nơi trong các nước CIS cũ (Liên bang các quốc gia độc lập - bao gồm Nga và một số nước trong Liên Xô cũ), việc khai thác bô - xít ở châu Âu hầu như đóng cửa từ cách đây nhiều thập kỷ.

Trên thực tế chỉ còn lại một số mỏ nhỏ và đang thu hẹp dần ở Rumani, Hy Lạp, và vùng Bankan... Trước đó nhiều nước Tây Âu đã lần lượt đóng cửa các mỏ than và quặng sắt, mặc dù còn trữ lượng lớn, song đã mất lợi thế so sánh trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế.

Nơi cung cấp quặng sơ chế alumina cho công nghiệp nhôm ở châu Âu hiện nay chủ yếu là Úc, Nam Mỹ và châu Phi. Trong vòng hai thập kỷ nay, sản xuất nhôm của châu Âu (trừ Nga) tăng không đáng kể, thậm chí có xu hướng giảm mạnh như ở các nước Đức, Pháp, Ý, riêng ở Anh từ nhiều năm nay không có số liệu thống kê (có lẽ hoàn toàn đóng cửa).

Sản lượng nhôm của các nước Tây Âu 18 tháng vừa qua tiếp tục giảm đi 0,35 triệu tấn, dự báo trong vòng một năm tới sẽ giảm tiếp 0,3 triệu tấn. Trừ các nước trong khối CIS cũ, sản xuất nhôm của châu Âu hiện nay đạt mức khoảng 8 triệu tấn/năm. Bắc Mỹ đã kết thúc thời đại hoàng kim công nghiệp luyện nhôm của mình vào khoảng đầu thập kỷ 1970, hiện nay sản xuất dừng lại ở mức khoảng 7 triệu tấn/năm.


Nguyên nhân chủ yếu khiến sản xuất nhôm ở châu Âu chững lại và giảm là do giá điện và vấn đề môi trường.

Về điện cho sản xuất nhôm

Để sản xuất 1 tấn nhôm từ quặng sơ chế alumina cần khoảng 14.500 kwh đến 15.000 kwh để điện phân, nghĩa là tương đương với lượng điện cho 1 gia đình trung bình dùng trong 20 năm trời! Riêng khối lượng điện hàng năm tiêu thụ cho sản xuất nhôm hiện nay trên thế giới còn lớn hơn hoặc tương đương với toàn bộ số lượng điện đang tiêu thụ hàng năm của cả châu Phi.

Giá CIF quặng sơ chế alumina loại (12% bụi ceria) tại cảng Trung Quốc có lúc lên tới khoảng 447 - 540 USD/tấn, nay giảm nhiều (350 - 400 USD/tấn). Giá 1MKWh điện ở Trung Quốc là 50 USD (nghĩa là 5 cent 1 Kwh). Như vậy riêng chi phí cho 1 tấn nhôm mất khoảng 1100 USD tiền nguyên kiệu và 700 - 800 USD tiền điện, chưa kể chi phí sản xuất. Có thể nói không cường điệu lắm: đối với một số nước (điển hình là Iceland) việc làm ra nhôm để bán, thực chất một phần là cách để bán điện (chiếm 30% giá thành, thậm chí có thể hơn nữa tùy theo giá điện mua được!).

Chuyên gia của những tập đoàn sản xuất nhôm lớn nhất nhì thế giới như RUSAL, ALCOA, ALCAN... đưa ra ý kiến: nếu không có giá điện khoảng 35 đến 40 USD/1MKWh (3,5 - 4 cent/Kwh) với đủ 6 yếu tố để làm nhôm như đã nêu trên, thì không thể nói là có điều kiện lý tưởng để sản xuất nhôm (Trung Quốc hiện đang sản xuất điện với giá 5 cent/kwh).

Chính thực tế này cắt nghĩa tại sao sản xuất nhôm tại các nước Tây Âu đang giảm, phần còn được duy trì chủ yếu là để phục vụ công nghiệp sản xuất nhôm cao cấp, hợp kim, nhất là các hợp kim cao cấp.

Ngay tập đoàn ALCOA hiện nay có ½ công suất sản xuất nhôm tại Texas phải đóng cửa vì không chịu nổi giá điện. Ảrập Thống nhất Emirat (EAU) đang dọa cắt hơi đốt để sản xuất điện cho lò luyện nhôm lớn nhất thế giới (trị giá 5 tỷ USD) của tập đoàn Rio Tinto đặt tại nước này, nếu Rio Tinto không chấp nhận giá ga mới... (EAU vừa giầu về năng lượng, nước và có vị trí địa lý và bờ biển có thể nói là lý tưởng cho công nghiệp luyện nhôm).

Về bùn đỏ

Quá trình sơ chế bô - xít để lấy alumina thường để lại tối thiểu là ½ trọng lượng quặng đã khái thác là bùn đỏ + khối lượng nước nhiễm bùn này trong quá trình tuyển rửa. Cả hai thành phần này - bùn và nước nhiễm bùn - vốn không thân thiện với môi trường, lại tồn đọng các hóa chất gây ăn mòn (đặc biệt là soude caustic), khiến chúng trở thành những vũng bùn lớn hầu như không có loài vi sinh nào sống được, hủy hoại bề mặt của đất và các mạch nước ngầm, gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường.

Gọi loại bùn đỏ này là “bom bẩn” không phải là hoàn toàn vô lý. Cách xử lý tối ưu là phải có nơi chôn loại bùn và nước thải này rồi phủ một lớp đất dầy lên trên, để lấy lại mặt bằng nơi khai thác và phủ xanh bằng trồng trọt. Đó cũng là phương thức đề phòng mưa gió chuyển tải bùn đỏ loang ra khắp vùng chung quanh, tuy nhiên vấn đề ô nhiễm nước ngầm do mưa tạo ra thì chưa có cách gì xử lý được ổn thỏa.

Việc hoàn thổ nơi khai mỏ và chôn bùn như vậy rất tốn kém, thường để lại những cảnh quan loang lổ như những vết sẹo lớn mầu nâu đỏ trên mặt đất. Cũng vì lý do này, vị trí nơi khai thác bô - xít phải là những vùng hoang vắng và xa các khu dân cư, xa các nguồn nước nổi và nước ngầm. Riêng vấn đề nhiệt độ không khí gia tăng và bụi do mưa gió cuốn đi khắp nơi chưa có cách nào xử lý thỏa đáng.

Một bãi bùn đỏ ở sau khi khai thác bô - xít, Ấn Độ. Ảnh: Geho


Việc luyện nhôm cũng gây ô nhiễm môi trường không ít. Cùng với giá điện đắt, đấy là 2 nguyên nhân chính khiến nhiều lò luyện nhôm ở Tây Âu và Bắc Mỹ tiếp tục đóng cửa.

Bãi bùn đỏ Nalco Damanjodi, Ấn Độ: không cỏ mọc, không một loại vi sinh, không sự sống. Ảnh: Geho

Là “công xưởng thế giới”, nhu cầu về nhôm và sản xuất nhôm của Trung Quốc trong vòng một thập kỷ nay tăng đột biến. Trung Quốc chiếm khoảng 3% trữ lượng bô - xít thế giới (có tài liệu nói là 2,3%), song hiện nay hàng năm tiêu thụ trên 10% sản lượng nhôm của thế giới và còn tăng nhanh trong những năm tới.

Nguyên nhân chính là bản thân nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc tăng trưởng mạnh, đồng thời Trung Quốc có chủ trương chiến lược tranh thủ sự chuyển dịch công nghiệp sản xuất ô-tô và máy bay vào Trung Quốc để sớm trở thành một cường quốc xuất khẩu hai mặt hàng quan trọng này.

Liên tục trong gần 2 thập kỷ vừa qua, sản lượng nhôm của Trung Quốc tăng khoảng 6 -10%/năm trên cơ sở nhập xấp xỷ 50% nguyên liệu từ bên ngoài. Hiện nay sản xuất nhôm trên lãnh thổ Trung Quốc đạt khoảng 16 triệu tấn, nhiều gấp đôi châu Âu, hoặc bằng cả Mỹ và Tây Âu cộng lại, chỉ đứng thứ hai thế giới (sau Úc) và còn tiếp tục tăng nhanh.

Tập đoàn sản xuất nhôm lớn nhất của Trung Quốc là CHALCO, đứng thứ tư thế giới, mỗi năm sản xuất khoảng 2,1 triệu tấn nhôm. Sự xuất hiện của “con rồng đói” Trung Quốc (TMS - The Minerals, Metals & Materials Society, Mỹ) như vậy là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho giá alumina trong vòng 10 năm nay từ 300 USD, lên 350 USD, có lúc vọt lên 450 USD/tấn, nhưng hiện nay đang giảm.

Vì những lý do trình bầy trên, Trung Quốc đang thực hiện một chiến dịch dài hạn và quyết liệt: “chinh phục” các thị trường bô - xít trên thế giới. Sản lượng nhôm hàng năm Trung Quốc đạt được hiện nay nói lên sự thành công của chiến dịch này.

Thị trường cung cấp alumina cho Trung Quốc có thể nói là dồi dào, người cung cấp chủ yếu là Úc, châu Phi, Indonesia và Nam Mỹ; riêng châu Phi có những mỏ do Trung Quốc trực tiếp khai thác.

Dòng suối Tịnh Tây, Quảng Tây - trước khi khai thác bô - xít.
Ảnh: Dương Danh Dy sưu tầm.

Tác động ô nhiễm môi trường nơi khai thác bô - xít: Dòng suối Tịnh Tây, Quảng Tây trở thành suối máu Ảnh: Dương Danh Dy sưu tầm.



Khó khăn lớn nhất đối với Trung Quốc hiện nay là môi trường nơi khai thác bô - xít bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhiệt độ không khí tăng lên và tàn phá nghiêm trọng các vùng chung quanh.

II. Được và mất đối với Việt Nam trong việc khai thác bô - xít ở Tây Nguyên

1. Lựa chọn con đường phát triển nào cho Việt Nam?

Đấy là câu hỏi đầu tiên cần đặt ra, trước khi cân nhắc nên hay không nên, được và mất gì trong việc khai thác bô - xít tại Tây Nguyên.

Trước hết, Việt Nam là một nước đất chật người đông, tài nguyên thiên nhiên đa dạng nhưng nhìn chung không ra tấm ra món và nằm không tập trung. Đặc biệt lại là nước đi sau, với tình trạng kinh tế nghèo và lạc hậu, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị vừa rất thuận lợi nhưng cũng rất nhạy cảm. Thực tế này đòi hỏi phải cân nhắc thấu đáo mọi bề trong việc lựa chọn chiến lược phát triển.

Với một dân cư 254 người/km2, Việt Nam có mật độ dân số đứng sau Ấn Độ (336/km2), gần ngang với Philippines (277/km2), nhưng gấp hơn 5 lần mật độ dân số cả thế giới (45,2 người/km2) và gần gấp 3 lần mật độ dân số châu Á (89/km2), cao hơn các nước Trung Quốc (138/km2), Thái Lan (125/km2), Malaysia (84/km2) là các quốc gia vừa có quan hệ kinh tế mật thiết với nước ta, vừa là các đối thủ cạnh tranh...

Đất chật người đông như vậy, đứng sát nách cái “công xưởng thế giới”, lại ở vào khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế giới, Việt Nam đứng trước những thách thức rất lớn trong phát triển và cạnh tranh kinh tế. Sau 32 năm xây dựng trong hòa bình, trong đó có 10 năm đầu khủng hoảng và 22 năm đổi mới, Việt Nam vẫn là nước nghèo nhất so với các nước ASEAN. So với Singapore, Malaysia và Thái Lan, sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta rất yếu và có khoảng cách lớn - ví dụ: so với Thái Lan hiện nay khoảng cách này có thể là 20 năm, so với Malaysia và Singpore còn xa hơn nữa.

Việt Nam cũng bị Trung Quốc bỏ lại rất xa về mọi phương diện, và trên thực tế đang chịu sức ép rất lớn nhiều mặt, đặc biệt là sức ép của nền kinh tế Trung Quốc - và điều này cũng là rất tự nhiên.

Trong bối cảnh như vậy, cuộc sống chỉ dành lại cho Việt Nam câu hỏi để trả lời: Trong tình thế này, ứng xử hay lựa chọn con đường phát triển nào là thông minh nhất cho Việt Nam?

Là nước đi sau, đất chật người đông, ở vào khu vực phát triển năng động và cạnh tranh quyết liệt như thế, dù lựa chọn con đường phát triển nào, sản phẩm gì.., để tồn tại được và trở nên giầu có, kinh tế Việt Nam chỉ có thể dựa trên (a)phát huy nguồn lực con người và (b)tìm cách làm ra ngày càng nhiều của cải trên đất nơi mình đang sinh sống. Xin nhấn mạnh: Là bằng sản xuất kinh doanh làm ra ngày càng nhiều của cải trên đất, chứ không phải dưới đất - với nghĩa là đào đất (như khai thác khoáng sản) lấy tài nguyên không tái tạo được đem đi bán và bán luôn cả môi trường tự nhiên, cả không gian sinh sống.

Thực tế khách quan khắc nghiệt của cuộc sống đòi hỏi như vậy. Phát huy nguồn lực con người để đẩy mạnh làm ăn trên đất là con đường sống và phát triển của nước ta, làm gì cũng không được xa dời nguyên lý này.

Nói một cách hình ảnh, đấy là đòi hỏi: Nước ta cần tìm cho ra một chiến lược phát triển sao cho với con người của mình, trên mỗi thước vuông của đất nước mình, có thể làm ra lâu dài và ngày càng nhiều của cải trong thế giới ngày càng cạnh tranh quyết liệt này!

Chúng ta không thể đào đất đem đi bán - kể cả dưới hình thức khai thác khoáng sản - để vừa thu hẹp và vừa hủy hoại không gian sinh sống vốn đã vô cùng chật hẹp so với dân số nước ta, lại vừa tạo ra cấu trúc kinh tế giam hãm đất nước trong lạc hậu, giữa lúc kinh tế ngày nay là của thời đại khoa học công nghệ và kỹ thuật, thời đại kinh tế tri thức và thời đại toàn cầu hóa. Than và dầu xuất đã quá nhiều rồi, chẳng bao lâu nữa, có thể ngay những năm đầu của thập kỷ 2010, nước ta sẽ phải nhập những thứ này.

Hơn nữa, không phải chỉ đối với sản phẩm bô - xít, ở vào đầu thế kỷ 21 này, là nước đi sau, mà lại chú trọng phát triển kinh tế nguyên liệu, tạo ra cấu trúc kinh tế mang nặng các sản phẩm thượng nguồn - bất luận nó là gì: dầu thô, than, sắt, gỗ, bột giấy, xi-măng... - thì sẽ có nguy cơ: Càng phát triển càng tụt hậu, càng đánh mất hai lợi thế cạnh tranh mạnh nhất, quý nhất, và cũng là hai lợi thế duy nhất nước ta có được: con người và vị trí địa lý kinh tế lý tưởng (đồng thời cũng là vị trí đầy thách thức đầu sóng ngọn gió của các sức ép nhìn theo địa kinh tế và địa chính trị).

Chưa nói đến khai thác bô - xít ở Tây Nguyên, cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay đã đi quá sâu vào kinh tế thượng nguồn và chưa chuẩn bị được bao nhiêu cho phát triển kinh tế hạ nguồn. Xu thế này rất nguy hiểm và cần sớm được đảo ngược.

Rồi đây, vào khoảng 2020, 2050 mật độ dân số nước ta còn cao hơn nữa, có thể gấp đôi hiện nay. Rồi hiệu ứng nhà kính vừa gây thiên tai tàn phá, vừa thu hẹp diện tích đất đai con người có thể sinh sống của nhân dân ta, đòi hỏi phải phát huy 2 lợi thế duy nhất nói trên của đất nước sẽ càng trở nên gay gắt hơn.

Ngày hôm nay đã phải bắt đầu chuẩn bị cho tình huống này, ngày hôm nay càng không được phép tạo ra hay chồng chất thêm những khó khăn mới cho tình huống này!

Vì ngay từ đầu chậm nhận thức ra hai lợi thế duy nhất này của đất nước, cho nên thành tựu phát triển kinh tế đất nước đạt được 32 năm qua dù là rất to lớn nếu đem ta ra so với ta, song vẫn là nhỏ và là quá chậm, nếu so với những gì nhiều quốc gia khác đã làm được trong cùng một chiều dài thời gian như vậy (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan...), hoặc so với đòi của bảo toàn độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia. Đất nước vẫn đang đứng trước thực tế: Càng phát triển, khoảng cách nhiều mặt giữa nước ta và những nước cần so sánh (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan...) đang rộng thêm mãi ra, nguy cơ tụt hậu đang tăng lên chứ không giảm đi.

Với đỉnh cao đạt được năm 2007, nước ta đã hoàn thành thời kỳ phát triển kinh tế theo chiều rộng. Trong tình hình như vậy mà tiếp tục đi sâu vào kinh tế nguyên liệu thì có nghĩa là tự mua dây thắt cổ mình, bởi vì các yếu tố để tiếp tục phát triển theo chiều rộng đã được khai thác tới ngưỡng không cho phép vượt qua.

Tình hình này thể hiện ở chỗ kinh tế từ một thập kỷ nay tăng trưởng mạnh nhưng chậm phát triển, hiệu quả kinh tế thấp, cấu trúc kinh tế thay đổi rất chậm; những ách tắc hay sự hẫng hụt lớn của chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng và năng lực quản trị quốc gia ngày càng gia tăng.

Nhìn theo góc độ này, lạm phát từ sau quý I-2008 vọt lên 2 con số ngoài việc là hệ quả của những yếu kém kinh tế vỹ mô còn là sự cảnh báo rõ ràng về cái ngưỡng không được phép vượt qua vừa nêu trên.

Tình hình hiển nhiên đã chín muồi: kinh tế đất nước phải chuyển sang một giai đoạn phát triển cao hơn - giai đoạn phát triển theo chiều sâu, chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người và khai thác hội nhập. Tiếp tục phát triển theo chiều rộng như vừa qua sẽ đi tới đổ vỡ.

Đất nước đang đứng trước
ngã ba đường: Hoặc là chuyển sang phát triển chủ yếu theo chiều sâu để tiếp tục con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa theo hướng trở thành một nước phát triển, hoặc đi sâu vào con đường phát triển hiện tại dựa trên lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên để trở thành một Philippines mới trong khu vực với mọi hậu quả khôn lường.

Lựa chọn con đường phát triển theo chiều sâu chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người và khai thác hội nhập, thì không thể lựa chọn đi sâu vào kinh tế nguyên liệu, càng không thể đi vào khai thác bô - xít ở Tây Nguyên như đang bắt đầu tiến hành.

2. Còn phương án phát triển nào tốt hơn cho Tây Nguyên?

Với cách nhìn vấn đề nêu trong câu hỏi 1, logic tiếp theo là phải đặt ra câu hỏi 2: Ngoài khai thác bô - xít, còn phương án phát triển kinh tế nào tốt hơn cho Tây Nguyên không?

Đã có nhiều tài liệu nói về tiềm năng kinh tế to lớn của Tây Nguyên và tầm quan trọng đặc biệt của nó đối với an ninh quốc phòng của cả nước. Điều này cũng có nghĩa là Tây Nguyên rất nhạy cảm đối với an ninh quốc phòng của cả nước.

Kiến nghị ngày 05-11-2008 của các nhà khoa học và làm công tác nghiên cứu gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước đề nghị tạm dừng khai tác bô - xít ở Tây Nguyên, báo cáo của tiến sỹ Nguyễn Thành Sơn "Những sai lầm chiến lược và những rủi ro hiện hữu trong việc phát triển các dự án bô - xít trên Tây Nguyên của VN", tham luận của nhà văn Nguyên Ngọc, và nhiều tham luận khác tại hội thảo Gia Nghĩa - Đắc Nông ngày 22 và 23-10-2008 đã nêu lên những lý lẽ xác đáng, xin miễn cho việc nhắc lại.

Dưới đây xin lưu ý thêm một số đặc thù của Tây Nguyên để góp phần vào việc tìm hướng đi cho vùng này.

Lựa chọn hướng phát triển Tây Nguyên xanh có lẽ là thích hợp nhất cho việc phát huy các tiềm năng của Tây Nguyên, tạo khả năng phát triển bền vững và gìn giữ môi trường, gìn giữ nguồn nước - không những không thể thiếu được để nuôi sống con người và tự nhiên toàn vùng Tây Nguyên, mà còn có lợi cho cả toàn vùng chung quanh, riêng phía Nam xuống tận miền Đông Nam Bộ.

Vì vậy: Khai thác khoáng sản ở Tây Nguyên mà không bảo toàn được Tây Nguyên thì có thể nói đến mức: Cướp như thế và mang đi bán dù chỉ là một nhát cuốc đất của Tây Nguyên, là cuốc lộn Tây Nguyên lên đem bán cho nước ngoài, để lại trong nước gánh chịu mọi hệ quả! Mong rằng lương tri đủ tỉnh táo để đánh giá việc làm này.

Ngoài Đà Lạt, Tây Nguyên còn một số các địa điểm có độ cao và địa hình tương tự như Đà Lạt, có thể cho phép tạo ra trên Tây Nguyên có thêm một hay hai Đà Lạt mới, ví dụ như Mang Đen (Komplong, Kontum), mở rộng Đà Lạt ra Đan Kia vân... vân... Rất nên tiến hành khảo sát kỹ những nơi có độ cao từ 800-1000m trở lên trên Tây Nguyên để làm rõ tiềm năng này.

Nếu tìm ra Tây Nguyên có thêm một hay hai Đà Lạt mang khí hậu ôn đới, tìm ra nhiều điểm cao khác dù là diện tích nhỏ hơn cũng có điều kiện khí hậu ôn đới như thế, phải nói đấy sẽ là nguồn của cải vô cùng giầu có và lợi thế đặc biệt được tạo hóa ban cho nước ta, để làm giàu cho Tây Nguyên và cho cả nước, giầu về của cải cũng như về văn hóa.

Những vùng hay điểm ôn đới như thế ở Tây Nguyên sẽ là độc nhất vô nhị trong toàn khu vực Đông Nam Á, cho phép nhân dân ta đem trí tuệ và tài năng của mình phát huy lợi thế này tạo thành những trung tâm của giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học, an dưỡng, du lịch và các dịch vụ khác của cả nước và toàn khu vực - đúng với nghĩa làm giàu trên đất.

Như vậy Tây Nguyên chẳng những sẽ tạo ra sức hấp dẫn cho chính mình mà còn cho cả nước, bảo tồn và làm giầu văn hóa Tây Nguyên và cả nước, có sức hấp dẫn đối với toàn khu vực và trên thế giới. Như vậy đất nước ta sẽ có thêm một cầu nối kinh tế và văn hóa rất quan trọng để đi vào kinh tế dịch vụ, kinh tế tri thức và hội nhập.

Điều cần đặc biệt quan tâm là sự tàn phá môi trường diễn ra đến nay ở Tây Nguyên đã vượt quá mức cho phép. Riêng Lâm Đồng có 67 nghìn ha rừng thông thì đã bị chặt sạch 52 nghìn ha với lý do thông già, mà lẽ ra chỉ nên khai thác tỉa bỏ những cây có bệnh và đồng thời phải trồng bổ sung để bảo toàn lá phổi của Tây Nguyên.

Ngày nay chỉ cần thêm một bước đi sai nữa, một quyết định sai, một quy hoạch sai dù là nhỏ trên Tây Nguyên, thậm chí dù chỉ ở một huyện hay một tỉnh, là hoàn toàn có thể hủy hoại toàn bộ triển vọng phát triển nói trên của Tây Nguyên, đồng thời gây tác hại cho các vùng lân cận . Xảy chân một bước, mang hận nghìn đời! Hệ quả không thể lường hết được. Xin đừng đánh giá thấp nguy cơ này.

Hiển nhiên là một thiếu sót lớn không thể bỏ qua là: Cho đến hôm nay Nhà nước ta vẫn chưa có một chiến lược phát triển Tây Nguyên được xây dựng theo hướng đi của thời đại, trên cơ sở những thành tựu khoa học và công nghệ mới nhất của văn minh nhân loại, cũng như trên cơ sở nhận thức đầy đủ những nguy cơ mới của biến đổi khí hậu và môi trường, những thách thức và cơ hội của hội nhập vào nền kinh tế thế giới đầy biến động trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.

Chưa có một chiến lược tổng thể với cách nhìn như vậy cho phát triển Tây Nguyên mà đã đi vào khai thác bô - xít ở Tây Nguyên thì không khác gì hôm nay bắt đầu chặt đứt tương lai phát triển của Tây Nguyên.

Vì những đặc thù nổi bật và tầm quan trọng như vậy, phát triển Tây Nguyên là nhiệm vụ của cả nước, phải do chính quyền Trung ương (Nhà nước) trực tiếp nắm lấy, phân cấp gì cho địa phương cũng phải trong khuôn khổ chiến lược phát triển do chính quyền Trung ương xây dựng với tinh thần vừa nêu trên, phân định rõ Trung ương (cả nước) phải làm gì và từng tỉnh Tây Nguyên phải làm gì.

Không thể khoán trắng cho các tỉnh để duy trì một Tây Nguyên phát triển trên cơ sở các nền kinh tế “GDP-tỉnh” và bị chi phối bởi tư tưởng “nhiệm kỳ”, manh mún, mạnh ai nấy làm, mỗi tỉnh một kiểu như hiện nay
. Không thể lại thêm mỗi ngành hay mỗi tập đoàn bất kể từ đâu đến ngày đêm xâu xé vùng này năm này qua năm khác...

Đấy là chưa nói đến vấn đề di dân tự do, nạn phá rừng đang diễn ra không ngừng trên Tây Nguyên...

Không có Tây Nguyên của Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông hay Lâm Đồng, mà chỉ có Tây Nguyên của cả nước, Tây Nguyên của Việt Nam! Càng không thể có Tây Nguyên của một ngành hay tập đoàn nào. Hơn nữa, phát triển Tây Nguyên cần bàn bạc kỹ với tất cả các tỉnh chung quanh.

Một lần nữa xin nhấn mạnh: Sự thật là nước ta thiếu hẳn một chiến lược phát triển đúng đắn làm nền tảng và căn cứ cho chiến lược tổng thể phát triển Tây Nguyên. Không thể kéo dài sự chậm trễ này nữa. Chiến lược Công nhiêp hóa - hiện đại hóa như đã đề ra và đang theo đuổi vừa còn nhiều điểm chưa rõ, vừa không thích ứng với tình hình mới: Đất nước đã kết thúc một giai đoạn phát triển, tình hình kinh tế và chính trị thế giới có nhiều thay đổi lớn mang tính một bước ngoặt.

3. Nhận xét về các dự án khai thác bô - xít đang triển khai

Ngoài những nhận xét đã nêu trong Kiến nghị ngày 05-11-2008 và trong Hội thảo Đắc Nông, dưới đây xin trình bầy thêm một số khía cạnh.

Nét chung nhất là việc quyết định khai thác bô - xít ở Tây Nguyên không được cân nhắc theo 6 yếu tố đã được đúc kết ra từ kinh nghiệm khai thác bô - xít trên thế giới. Chủ trương tiến hành khai thác bô - xít ở Tây Nguyên thực ra chủ yếu chỉ dựa trên hai yếu tố cuối cùng và có tầm quan trọng thấp nhất: có quặng, có lao động rẻ; 4 yếu tố đầu quan trọng hơn và mới thực sự là những yếu tố quyết định thì chỉ được xem xét để cho qua, thực tế là bỏ qua.

Có thể khẳng định từ nay đến năm 2020 - 2025 nước ta không thể có điện cho sản xuất nhôm, cho dù đến lúc đó có thể đã có điện hạt nhân. Ngay trước mắt, kể cả trường hợp 13 dự án điện tập đoàn EVN “nhả ra” với lý do thiếu vốn vẫn được các tập đoàn khác cáng đáng, khó có thể nói đến năm 2020 ta có thể đáp ứng đủ yêu cầu về điện của cả nước - chưa tính đến chuyện điện cho luyện nhôm ở Tây Nguyên.

Giả định rằng kiên quyết đầu tư một số công trình điện thủy lợi hay nhiệt điện chỉ để cho phục vụ riêng cho luyện nhôm ở Tây Nguyên thì khó mà đạt được yêu cầu 5 cent (USD)/kwh với một lượng điện dồi dào để có thể cung ứng dù chỉ cho một (1) lò luyện nhôm, công suất tối thiểu phải có là 100.000 tấn/năm, nghĩa là ít nhất cần phải có khoảng 1,5 tỷ kwh cho luyện một lò như vậy - tương đương với 1/6 hay 1/5 công suất một năm của nhà máy thủy điện Hòa Bình.

Điều này có nghĩa để sản xuất ra khoảng một nửa triệu tấn nhôm, phải đầu tư riêng cho điện ước khoảng 2 - 2,8 tỷ USD theo tính toán hiện nay của EVN với giá 1kw cho thủy điện là 1500 USD và cho nhiệt điện là 1200 USD. Tổng sản lượng điện cả nước làm ra năm 2007 là 58,4 tỷ kwh, chỉ vừa đủ sản xuất ra gần 4 triệu tân nhôm.

Vào khoảng năm 2015 trở đi Việt Nam sẽ là nước nhập than và dầu, chẳng lẽ chỉ để cho sản xuất alumina? - chứ không phải nhôm! Lò luyện nhôm công suất dưới 100.000 tấn giá thành sẽ tăng vọt, rất khó cạnh tranh trên thị trường. Nếu có một lượng điện như thế ở Tây Nguyên thì dùng vào việc khác sẽ làm ra nhiều của cải hơn.

Là nước đi sau, bây giờ mới tham gia thị trường nhôm với tư cách là nước xuất khẩu, tối thiểu nước ta phải có sản lượng nhôm hàng năm từ 0,5 đến 1 triệu tấn thì mới trụ được; nghĩa là chỉ riêng về điện ta sẽ cần có thêm từ 1 đến 2 nhà máy thủy điện Hòa Bình chỉ để phục vụ cho mục đích này. Có nên không? Có khả thi không?

Tất cả những điều vừa trình bày cho thấy từ nay đến năm 2020 hoặc 2025 ta không có khả năng tự sản xuất 100.000 tấn nhôm có hiệu quả kinh tế cao và cạnh tranh được trên thị trường. Nghĩa là, nếu bây giờ quyết khai thác bô - xít Tây Nguyên, thì mãi cho đến năm 2020-2025 ta chỉ có khả năng làm ra alumina để xuất khẩu, và phải gác lại dài hạn hơn mơ ước trở thành quốc gia xuất khẩu nhôm.

Như vậy, nguy cơ nhãn tiền là chiến lược sản xuất nhôm xuất khẩu vào năm 2020-2025 có thể sẽ bị gián đoạn hẳn, hoặc phải dừng lại trong thời gian chưa tính toán được ở khâu sản xuất ra alumina, với những hệ lụy không tưởng tượng được cho đất nước.

Một bài toán nữa chưa có lời giải là vấn đề nước ở Tây Nguyên cho bô - xít: Lấy ở đâu? và xử lý nước bùn thế nào ở nơi cao và có độ dốc lớn? Các thông tin về công nghiệp nhôm trên thế giới cho thấy tùy công nghệ sử dụng, lượng nước cần thiết cho chế biến được 1 tấn alumina thông thường là 24 m3 - nếu có lắp đặt thêm công nghệ tái tạo lại nước đã sử dụng thì có thể giảm xuống còn 6 m3.

Công nghệ được sử dụng tại Aughinish / Ireland được coi là hiện đại nhất cho đến nay, sử dụng khoảng 3 m3 / 1 tấn alumina. Nhiều mỏ bô - xít tại Trung Quốc gây ô nhiễm môi trường trầm trọng do không xử lý tốt vấn đề nước bùn, nên đã có những sông suối mang mầu đỏ mà chính báo chí Trung Quốc gọi đó là những sông suối “máu”.

Một số vấn đề khác có liên quan: Giả thiết ta chỉ sản xuất alumina

Hiệu quả kinh tế đầy nghi ngờ

Hiện nay, sản xuất ra một tấn alumina (quặng bô - xít sơ chế) cần phải có khoảng một tấn than; điều này có nghĩa phải chuyển một lượng than lớn lên Tây Nguyên, đi bằng đường nào? Hoặc phải có một lượng điện tương ứng. Nếu tính đủ cả chi phi cho đầu tư kết cấu hạ tầng, chi phí hoàn thổ và phục hồi môi trường đúng với yêu cầu mà cấu tạo địa hình Tây Nguyên đòi hỏi sau khi khai thác, liệu giá thành sản xuất alumina của Tây Nguyên có thể giữ được khoảng 300 - 350 USD/tấn (giá FOB) hoặc thấp hơn nữa để đứng vững được trên thị trường hay không?

Muốn đạt giá thành trên, ngoài tổng chi phí cho khai thác, hàm lượng nhôm trong quặng phải đạt công thức 4/2/1. Giả thiết rằng hàm lượng nhôm trong quặng thấp, ví dụ có thể là <4/<2/1,>

Hơn thế nữa, alumina của ta làm ra ai sẽ mua? Ta không thể đem alumina bán cho Tây Âu và Bắc Mỹ được vì xa quá, cước phí vận tải tốn kém và ở đấy sản xuất nhôm đang bị thu hẹp. Nhật Bản là nước nhập nhôm (chứ không phải là alumina) để tiêu dùng, để luyện nhôm tinh khiết và chế tạo các hợp kim cao cấp khác.

Nhìn quanh ta: Cường quốc xuất khẩu nhôm là New Zealand, đạt kim ngạch khoảng 1,5 tỷ USD - tương đương với xuất khẩu thủy sản của nước ta, song đã có nguồn nhập alumina ổn định từ Úc, giá cả có sức cạnh tranh và chất lượng cao.

Thái Lan chỉ có công nghiệp nhôm tái sinh từ sản phẩm nhôm đã dùng (recycle), các nước ASEAN còn lại hầu như chưa có công nghiệp luyện nhôm đáng kể và không phải là các quốc gia nhập khẩu alumina. Như vậy hầu như chỉ còn Trung Quốc là quốc gia duy nhất trong khu vực Đông Nam Á nhập alumina và có rất nhiều đầu mối trên thế giới để nhập với khối lượng lớn, giá cả cạnh tranh.

Tình hình cho thấy, nếu ta quyết định sản xuất ra alumina, nước ta có thể sẽ rơi vào tình thế: Thị trường quanh ta chỉ có một người mua là Trung Quốc, trong khi đó người bán rất nhiều và đều mạnh hơn ta (Úc, châu Phi, Nam Mỹ...). Thực tế này sẽ tạo ra cho alumina của ta sự lệ thuộc nguy hiểm.

Giả thử rằng quyết định vào năm 2020 - 2025 nước ta mới bắt đầu đi vào công nghiệp nhôm, có thể lúc đó - nhờ sự phát triển mọi mặt của đất nước và những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật và công nghệ - tình hình sẽ cho phép nước ta một sự lựa chọn khác: đi thẳng vào công nghiệp nhôm cao cấp (nhôm tinh khiết, các hợp kim quý...), trên cơ sở nguyên liệu nhập hay tại chỗ, với những điều kiện kinh tế và những điều kiện thân thiện với môi trường có lợi hơn rất nhiều so với hiện nay. Nghĩa là lúc này vội vã hay nôn nóng là tự ăn vào chính mình!

Một ví dụ cụ thể, ngay bây giờ, giữa lúc người làm dự án khai thác bô - xít Tây Nguyên dự định tạm thời vận tải alumina xuống biển bằng đường ô-tô, trong đầu mới chỉ có ý tưởng sẽ vận chuyển alumina bằng đường sắt, nhưng chưa có quy hoạch và thiết kế khả thi cho đường sắt này, thì trên thế giới đã có một vài nơi vận tải alumina bằng đường ống (Úc, Brazil...)...

Quan trọng hơn thế nhiều là tại sao không ngay từ bây giờ tính đến phương án và trù bị mọi việc, để vào một thời điểm nào đó, Việt Nam sẽ có thể thay thế Nhật Bản sản xuất những sản phẩm nhôm cao cấp? Xin lưu ý, hiện nay Nhật đang trù tính chuyển nhiều bộ phận công nghiệp của nền kinh tế nước mình ra bên ngoài để tăng cường khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế Nhật.

Là nước đi sau, chúng ta có quyền lựa chọn. Có nên tính đến yếu tố này trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế của nước ta hay không? Lựa chọn con đường này sẽ có khả năng tránh hay giảm thiểu đáng kể việc phát triển kinh tế của các sản phẩm thượng nguồn và giúp ta khắc phục tốt hơn tình trạng tụt hậu. Như vậy đối với nước ta hiện nay, với một tầm nhìn chiến lược mới và cách tiếp cận mới, càng chậm đi vào khai thác bô - xít ở Tây Nguyên, càng có lợi. Lợi thế nước đi sau là như vậy.

Ngay ở Trung Quốc, việc phát triển công nghiệp nhôm ngoài đòi hỏi tất yếu là đáp ứng nhu cầu tiêu thụ mỗi năm khoảng 15 triệu tấn không có cách gì nhập đủ được, Trung Quốc gắn nhiệm vụ này với việc nhiệm vụ tranh thủ cơ hội trở thành cường quốc xuất khẩu ô-tô và máy bay. Rõ ràng thời buổi ngày nay quốc gia nào có ý thức về cạnh tranh đều phải “gắn” như vậy, nếu không là tự đào thải mình. Tìm cách gắn với cái hiện đại và sức cạnh tranh cao, chứ không phải gắn với tài nguyên không tái tạo được và lao động cơ bắp.

Quy trình lộn ngược

Việc triển khai các dự án khai thác bô - xít ở Tây Nguyên ngoài việc thiếu chiến lược phát triển tổng thể của vùng này làm nền tảng, có nguy cơ đang diễn ra theo quy trình lộn ngược: Kết cấu hạ tầng phải có cho khai thác và cho bảo vệ môi trường không được xây dựng trước khi tiến hành triển khai các công trình khai thác và tuyển + sơ chế quặng. Các kế hoạch giải quyết các vấn đề an sinh xã hội có liên quan đến toàn vùng Tây Nguyên hoặc là mới có ở mức độ ý tưởng, hoặc là chưa nghĩ đến, hoặc chưa có!

Chưa thấy các dự án khai thác alumina ở Tây Nguyên có các nguồn điện và nước của riêng mình, trước mắt vẫn là tính chuyện sử dụng các đầu vào này (input) cho sản xuất trên cơ sở các nguồn hiện có tài chỗ. Cách tiếp cận này rất nguy hại cho Tây Nguyên, trong khi Tây Nguyên đang thiếu trầm trọng điện và nước cho con người, nông nghiệp và cây công nghiệp.

Vấn đề vận tải một khối lượng lớn quặng sơ chế alumina (ước lượng từ 0,6 đến 1 triệu tấn/năm) từ Tây Nguyên xuống cảng biển trong nhiều năm sau khi bắt đầu khai thác, trù tính trong thời chưa có đường sắt và cảng chuyên dụng, sẽ dử dụng đường bộ và một hay nhiều cảng hiện có.

Điều này có nghĩa sẽ hủy hoại đáng kể những con đường và cảng có liên quan, đồng thời làm ô nhiễm không thể cứu vãn được cả một vệt đỏ dài hủy diệt xuất phát từ các mỏ bô - xít ở Tây Nguyên chạy xuống tận cảng biển, một phần lớn vùng duyên hải miền Trung.

Thực tế này sẽ cũng có nghĩa là làm hỏng luôn kinh tế cả vùng duyên hải miền Trung, nhất là ngành du lịch. Với cung cách làm ăn đang có của ta, chờ cho đến khi hoàn thành được đường sắt và cảng chuyên dụng cho xuất khẩu bô - xít, tình hình có thể sẽ quá muộn - chưa nói đến chuyện những công trình chuyên dụng này có khả thi về mặt kinh tế hay không, có tiền để làm không, và biết bao nhiêu điều bất thường khác! V... v...

Việc xử lý bùn đỏ và nước thải nêu trong các đề án khai thác bô - xít đầy nghi ngờ, vì hai lý do: (a)rất tốn kém, (b)khó có thể làm được như có thể viết ra trên giấy - hiện tượng này đã từng xảy ra tại nhiều nước trên thế giới - kể cả ở Úc, Canada....

Ngay ở nước ta, xin hãy nhìn lại quá trình khai thác than hơn 100 năm nay ở Quảng Ninh, nhất là 30 năm trở lại đây. Có thể nói, cho đến ngày hôm nay, tất cả các mỏ than đã khai thác xong và đã đóng cửa ở Quảng Ninh hầu như đều là các vùng “Quảng Ninh đen”, chưa có một nơi nào môi trường tự nhiên được hoàn lại như trước khi khai thác.

Một lần tôi hỏi một đồng chí lão thành cách mạng là nguyên bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh: “Tại sao không phục hồi trả lại môi trường nơi khai mỏ?”. Trả lời: “Một là làm như thế sẽ lỗ; hai là ăn hết mất rồi!” Với cách quản lý mỗi năm hàng chục triệu tấn than xuất khẩu lậu như đã từng xảy ra vừa qua, thật khó tin môi trường những nơi khai thác bô - xít ở Tây Nguyên sẽ được hoàn trả một cách an toàn, nhất là vùng này cao và có độ dốc lớn. Còn các vấn đề ô nhiễm khác?

Hồ chứa bùn đỏ sau khi lấy alumina từ bô - xít tại Kashipur - Orissa, Ấn Độ: không còn sự sống nào trong môi trường này.
Ảnh: Miningwatch.ca

Vấn đề nguy hiểm nhất trong quy trình lộn ngược này là chưa có một chương trình khả thi và được phê duyệt ở cấp quốc gia cho việc bảo vệ, phục hồi môi trường nơi khai thác và cho toàn vùng, thiếu hẳn sự bàn bạc với các tỉnh, các địa phương chung quanh và các Bộ, ngành có liên quan về việc phối hợp, hợp tác với nhau xử lý các hệ quả của khai thác bô - xít có thể xảy ra. Lẽ ra vấn đề nguy hiểm nhất này phải được xử lý đầu tiên trước khi quyết định sẽ làm hay không làm alumina ở Tây Nguyên.

Việc làm mới?

Báo chí nói dự án khai thác bô - xít ở Tây Nguyên đã động thổ (Đắc Nông) sẽ đem lại 16 nghìn việc làm mới. Nhìn theo cái giá Tây nguyên phải trả, con số này thật quá bé nhỏ so với dân số Tây Nguyên - năm 1975 lả 1,3 triệu người và hiện nay là gần 4 triệu người.

Ngoài ra về bô - xít ở Tây Nguyên, chí ít phải đặt thêm các câu hỏi: (1)16 nghìn việc làm này là cho ai - nghĩa là người dân tộc nào? (2) Bao nhiêu người các dân tộc Tây Nguyên sẽ bỏ đi và sự xáo trộn dân cư “đến và đi” sẽ xảy ra như thế nào? hệ quả mọi mặt? (3) Phương án Tây Nguyên xanh có tạo ra nhiều việc làm hơn không? (4)Bao nhiêu việc làm thuộc các ngành nghề khác ở Tây Nguyên và các vùng, các tỉnh chung quanh sẽ bị mất đi do việc khai thác bô - xít hủy hoại môi trường toàn vùng? V... v...

Năm 1976 Tây Nguyên có khoảng 1,2 triệu người sinh sống, hiện nay là gần 4 triệu. Trong một môi trường dân số tăng nhanh như vậy- nhất là do tăng dân số cơ học và còn đang tiếp tục tăng, thêm một hai chục nghìn việc làm mới cho Tây Nguyên nhờ khai thác bô - xít như vậy, có giải quyết được vấn đề đời sống của Tây Nguyên không? Trong khi đó một không gian dân cư sinh sống đáng kể sẽ bị việc khai thác khoáng sản này cướp đi. Nên lựa chọn cái gì?

Cần lưu ý: Con số 16 nghìn việc làm có thể tạo ra nhờ khai thác bô - xít như báo chí nêu lên, chủ yếu sẽ là lao động thủ công. Thực tế ở Việt Nam và trên thế giới cho thấy khai thác mỏ càng sử dụng nhiều lao động thủ công, hủy hoại môi trường càng lớn. Trên hết cả, xin hãy đi khảo sát đời sống thợ tại các mỏ than, mỏ đá, các mỏ khoáng sản khác ở khắp nước ta để suy nghĩ xem: Họ đang sống như thế nào? Đây có phải là loại việc làm đáng tạo ra của thời kỳ đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại thời hội nhập ngày nay hay không? Vân... vân...

Muốn phát triển Tây Nguyên bền vững, cần trả lời thỏa đáng nhiều câu hỏi khác tương tự như thế, kể cả về an ninh quốc phòng và đối ngoại.

Kết luận

Khai thác khoáng sản đem bán - dù là than, dầu hay là gì nữa - lúc này đối với nước ta là cực chẳng đã, là hạ sách, trong nhiều trường hợp là thất sách, không nên mở rộng thêm, mà cần thay đổi tình hình này càng sớm càng tốt, kéo dài là chuốc thêm nghèo khó và tụt hậu.

Ngoài ra nước ta hàng năm thiên tai gây ra biết bao nhiêu khốn khó, năm sau có thiên hướng khắc nghiệt hơn năm trước, tình trạng lụt lội các nơi ngày càng nhiều. Không có lý do gì mỗi năm lại cứ cho đẻ thêm các công trình kinh tế góp phần làm trầm trọng thêm thiên tai, để rồi lại kêu gọi cả nước ra sức chống, ra sức cứu, với bao nhiêu đau thương và tổn thất.

Khai thác bô - xít ở Tây Nguyên như đang triển khai , sẽ (1)hủy hoại môi trường đồng thời làm biến đổi khí hậu toàn bộ vùng này và chung quanh, (2)thu hẹp vùng dân cư sinh sống, (3)gây phương hại cho an ninh của đất nước.

Khai thác bô - xít như đang triển khai, về lâu dài là đang lấp ló một “Vedan” khổng lồ, toàn diện, vô phương cứu chữa, là sự phụ họa tiếp theo với thiên tai, để làm hỏng đất nước, kéo dài nữa sự tụt hậu của cả nước.

Liên quan đến Vedan, ngày 13-11-2008 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói trước Quốc hội: “Chính phủ cũng chủ trương ngăn chặn những vi phạm mới, không vì lợi ích trước mắt mà hy sinh môi trường. Vừa rồi Chính phủ đã từ chối dự án thép trị giá 4 - 5 tỷ USD vì vấn đề môi trường”. Mong rằng tinh thần này được vận dụng cho bô - xít Tây Nguyên.

Với nguy cơ triển khai theo quy trình lộn ngược như đang thực hiện, chương trình khai thác bô - xít Tây Nguyên có thể vừa để lại nhiều hệ quả lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, vừa tạo ra cho nước ta sự lệ thuộc mới không thể chấp nhận.

Khai thác bô - xít như đang triển khai nguy hiểm tới mức những sai lầm có nguy cơ gây ra những tổn thất lớn lao mang trọng tội đối với quốc gia, thiết nghĩ nên cân nhắc rất cẩn trọng với tầm nhìn dài hạn.

Vì vậy xin đề nghị lãnh đạo Đảng và Nhà nước chỉ thị cho tạm dừng việc triển khai chương trình này, thực hiện các nghiên cứu cho phép đi tới những quyết định thỏa đáng cho tương lai phát triển của Tây Nguyên, trước khi đi tới quyết định nên dừng hẳn trong một thời gian nhất định việc khai thác bô - xít ở Tây Nguyên, hay nên đi tiếp và đi tiếp như thế nào. Mong trí tuệ của cả nước được huy động, và mong khai thác kinh nghiệm của cả thế giới cho việc này.

Xin trân trọng đề nghị Bộ Chính trị và Chính phủ cử một đoàn có thẩm quyền về kiến thức khoa học và kinh tế, độc lập với các Bộ, ngành và tập đoàn,

- a: đi khảo sát một số nơi chứa bùn đỏ ở Ấn Độ, châu Phi, hay một vài nơi nào khác để nghiên cứu những hệ lụy trong việc khai thác bô - xít, về báo cáo công khai trong nước để tham khảo ý kiến nhân dân trước khi đi tới quyết định cuối cùng.

- b: đi khảo sát dự án đầu tư của Trung Quốc ký với Úc khai thác bô - xít ở mỏ Aurukun, Queensland rồi so sánh với những dự án ta đã ký kết và rút ra những kết luận cần thiết cho Tây Nguyên.

Con đường đi lên của nước ta là tìm cách phát huy con người Việt Nam tự chủ, có ý chí nhẫn nại làm giầu bền vững, lâu dài trên từng thước vuông đất của Tổ quốc chúng ta - bằng trí tuệ và lao động cần cù sáng tạo, chứ không phải bằng cách đào bới khoáng sản đem đi bán.

Xin đừng giây phút nào quên nước ta đất chật người đông, ở vào vị trí địa lý và vị thế đầy thách thức ác nghiệt. Riêng trong nửa sau của thế kỷ 20 nước ta phải gánh chịu 5 cuộc chiến tranh khốc liệt, và hôm nay bước vào thế kỷ 21 với sự lạc hậu và tụt hậu kinh hoàng so với thế giới. Cần nhìn vào con đường đất nước phải đi để thấy hết sự thật này! Phải biến thách thức thành cơ hội. Đó là con đường duy nhất để tồn tại và phát triển. Vị trí địa lý và vị thế nước ta tiềm tàng một cơ hội như thế! Tất cả trước hết phụ thuộc vào cái đầu và ý chí, chứ không phải cơ bắp.

Thừa hưởng những kinh nghiệm của các nước đi trước trong hai thế kỷ trước, một số nước NICs đã tận dụng được lợi thế nước đi sau và đã thành công - con đường họ đi bắt đầu từ giáo dục... Tại sao nó không thể là con đường của chúng ta? (tham khảo thêm: “Lối đi duy nhất để Việt Nam thoát nghèo” "Chàng trai 22 tuổi không thể sống trong quần áo thiếu niên" ).

Thế hệ chúng ta hôm nay cần làm mọi việc để tránh phải đi vào lịch sử với “tội danh” là thế hệ hủy hoại Tây Nguyên. Trách nhiệm của mỗi người Việt Nam thế hệ hôm nay đối với phát triển và tương lai của Tây Nguyên là không thể thoái thác.

  • Nguyễn Trung

Tài liệu tham khảo

1. Các websites về công nghiệp và thương mại aluminum của các quốc gia được nhắc tới trong tham luận này.

2. Các báo cáo năm của UNDP, WTO năm 2005, 2006.

3. Các bài về công nghiệp nhôm của Earth Policy Institute - USA 2003 - 2006.

4. Các báo cáo chuyên đề hàng năm của ALCOA -

http://www.alcoa.com/global/en/investment/annual_rep.asp

5. bô - xít AND ALUMINA PROCESSING METHOD AND TAILINGS PRODUCTION - http://www.miro.co.uk/tailsafe-if/restricted/docs/wp1_2_6_bô - xít.pdf

6. Các báo cáo chuyên đề hàng năm của UC RUSAL http://www.rusal.ru/en/

7. European Aluminum Association Report - 2007.

8. bô - xít and Aluminum: A Cradle to Grave Analysis) - Nguồn: bss.sfsu.edu/raquelrp/projects/bô - xít%20and%20Aluminum.ppt

9. “MATERIALS AND THE ENVIRONMENT” Chapter 6. Designing a New Materials Economy Lester R. Brown.

10. Eco-Economy: Building an Economy for the Earth, W.W. Norton & Co., NY: 2001.

11. Ecological restoration of land with particular reference to the mining of metals and industrial minerals: A review of theory and practice by J.A. Cooke and M.S. Johnson - nguồn: pubs.nrc-cnrc.gc.ca/rp/rppdf/a01-014.pdf

12. Canadian Mining Companies Destroy Environment

and Community Resources in Ghana - nguồn http://www.miningwatch.ca/updir/Cdn_Cos_in_Ghana.pdf

13. Dương Danh Dy - “Tìm hiểu tình trạng ô nhiễm môi trường khi khai thác bauxit tại một vài nơi ở Trung Quốc”.

14. Nguyễn Trung, (1)“Ngã ba 2007” VietnamNet, 25-12-2007, (2) “Lối đi duy nhất để Việt Nam thoát nghèo” VNN.VN 24/10/2008 10:35, và (3)"Chàng trai 22 tuổi không thể sống trong quần áo thiếu niên" VNN.VN 31/10/2008 10:11.






ĐÓNG GÓP CỦA BẠN ĐỌC CHO CHUYÊN MỤC
(Hãy gửi cho chúng tôi bản đánh máy có dấu để bài viết của bạn sớm được đăng!)
Họ và tên: Anh Kiệt
Địa chỉ:
Email: anhkiet6038@yahoo.com.vn

Cảm ơn VNN dũng cảm đăng bài viết đầy trọng trách này. Việc khai thác bauxite sẽ còn tệ hơn Vedan về môi trường rất nhiều, hiệu quả kinh tế không cao, mà văn hoá Tây Nguyên thì gần như chắc chắn mất. Đau lòng biết bao, khai thác sẽ chỉ mang lại lợi ích cho một nhóm người, mà thiệt hại cho số đông nhân dân. Xin các nhà khoa học, các nhà văn hoá lên tiếng mạnh mẽ hơn, xin Chính phủ hãy vì văn hoá Tây Nguyên, vì nhân dân mà nghĩ lại, cho thu hồi quyết định thực thi dự án này trước khi quá muộn.
Họ và tên: nguyễn văn minh hiền
Địa chỉ: tp.HỒ CHÍ MINH
Email: hienduc666@yahoo.com

Nên xây dựng một Tây Nguyên xanh chứ không phải đỏ . Lợi ích trước mắt mà dự án này đem lại là không lớn , nhưng trái lại hậu quả về lâu về dài là rất lớn . Vậy có nên tiếp tục không ? Chắc là không nhất là đối với chúng ta vì đã có những bài học từ các nước trên trên thế giới .

Họ và tên:
Địa chỉ: NT
Email: giahamvui@yahoo.com

Cảm giác sau khi đọc bài này thật vui. Thật là qu'y hóa . Thật đáng trân trọng. Một bài viết thể hiện trách nhiệm cao của công dân đối với đất nước. Có giá trị tham khảo thiết thực hơn là những bài luận án, luận văn được đệ trình để lấy bằng cấp này, bằng cấp nọ.

Họ và tên: nguyễn Hồ Nghĩa
Địa chỉ: Quảng Ngãi
Email: nghiabdt@gmail.com.vn

Đất nước ta đã thoát nghèo.Hãy nhớ cha ông ta đã làm được gì cho đất nước, và chúng ta cần làm gì cho con cháu mai sau. Để bảo vệ đất nước này hãy nhớ nghĩa bóng của câu:"Đói cho sạch,rách cho thơm", đừng vì lợi ích của cá nhân hay một nhóm người nào mà tàn phá môi trường, đời sống của người dân".
Họ và tên: Dương
Địa chỉ: Hà Nội
Email: duongds@yahoo.com

Bài viết đầy tính thuyết phục, tâm huyết.
Cảm ơn tác giả rất nhiểu

Họ và tên: Vương Đạo Hoàng
Địa chỉ:
Email: vdh97k@yahoo.com

Bài viét của tác giả Nguyễn Trung làm tôi thấy thật bàng hoàng. Theo như nội dung bài viết thì thực sự, liệu chúng ta đã nghiên cứu kỹ càng dự án khai thác quặng nhôm này ?
Đất nước Việt Nam là của nhân dân Việt, không của riêng ai cả. Chúng ta rất cần những phân tích như bài viết của tác giả Nguyễn Trung để hiểu hơn điều gì đang diễn ra.
Trân trọng cảm ơn.

Họ và tên: Trân Hoài Anh
Địa chỉ:
Email: anhhoai@yahoo.com

Thiết nghĩ, quan điểm đánh giá của tác giả về vấn đề này đã bao trùm toàn diện các khía cạnh của việc khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Chính phủ hãy ra quyết định trước khi quá muộn!

Họ và tên: NHD
Địa chỉ: Đại học Bách Khoa Hà Nội
Email: duybka@yahoo.com

Bài viết thật sâu sắc. Tôi rất đồng tình với ý kiến của tác giả. Mong Nhà nước và Chính phủ tạm dừng dự án khai thác bauxite để giữ lại Tây Nguyên cho đất nước

Họ và tên: Trúc Ly
Địa chỉ: Cà Mau
Email: trucly1980@yahoo.com

Bài viết về khai thác Bauxite của tác giả quá sâu sắc, quá trách nhiệm đối với vùng Tây nguyên màu mỡ và đương nhiên quá tính khoa học. Tôi nghĩ, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước sẽ nhìn nhận vấn đề và đưa ra những Quyết định đúng nhất, ưu việt nhất để không có "VEDAN" khổng lồ thứ hai huỷ diệt Tây nguyên xanh. Tôi tin tưởng vào sự sáng suốt của Chính phủ không làm điều gì gây tổn hại cho Tây Nguyên. Theo tôi với phương châm "xây dựng đất nước phát triển toàn diện đuổi kịp các nước trong khu vực và thế giới nhưng không phải bằng mọi giá".
Họ và tên: Nguyen Tien Lap
Địa chỉ: 444 Doi Can, Hanoi
Email: tienlap62@yahoo.com

Tôi rất xúc động khi đọc bài viết này và xin với tất cả tấm lòng cảm ơn nhà nghiên cứu Nguyễn Trung về sự công phu, nhiệt huyết với nhân dân và đất nước, cũng như phân tích khoa học toàn diện và sắc sảo xung quanh dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Sự tiếp tục có bàn luận và tranh cãi về dự án này thể hiện tinh thần trách nhiệm của giới trí thức VN và cả xã hội về chủ trương "công nghiệp hoá - hiện đại hoá" đất nước của Đảng và Nhà nước. Mong rằng có thêm nhiều tác giả nữa như bác Nguyễn Trung, tuy tuổi cao nhưng vẫn "đau đáu" nghĩ về tương lai và vận mệnh dân tộc.
Họ và tên: MyLinh
Địa chỉ:
Email: teletech_vp@yahoo.com

Bài viết phân tích thật sâu sắc, đầy tâm huyết với nhiều tài liệu minh chứng của tác giả. Mong sao cho đất nước ngày càng có nhiều người như Nguyễn Trung thì chắc sẽ sớm bằng bạn bè.

Họ và tên: Doãn Mạnh Dũng
Địa chỉ: 380B Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P8, Q3, Tp HCM
Email: dungdzoan@gmail.com

Cách đây trên 10 năm , chúng tôi đã nghiên cứu và sau đó đã đệ trình đến lảnh đạo tỉnh Phú Yên mô hinh khai thác bâu xit Đắc Nông như sau :
Tại Đắc Nông chỉ tuyển quặng với hình thức tuyển khô, không dùng nước hay xút.Vì mỏ quặng tại Đắc Nông bố cục theo từng lớp, nên sau khi bóc lớp quặng thì phủ đất lại trồng rừng.Như vậy tác đông đến môi trường là tối thiểu.
Quặng được đưa về Nam Phú Yên bằng đường xe lửa nối từ chân núi ( phía nam Ban Mê Thuột) - qua Ban Mê Thuột - Nam Phú Yên để sử lý bằng nước , xút và điện phân.Cao độ ở vùng này là 400m thuận xây dựng đường xe lữa.

Khu vực Nam Phú Yên -phía bắc Đèo Cả là khu vực ít dân và có chủ trương tập trung xây dựng khu công nghiểp có sự ô nhiểm cao như lọc dầu, hóa dầu. Không nên xuất thô ,vì lợi nhuận không xứng với chi phí bảo vệ môi trường.
Họ và tên:
Địa chỉ:
Email: dthibien@yahoo.com

Để sản xuất nhôm cần nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là có nguồn điện dồi dào, có nguồn nước dồi dào. Thực tế ở Gia Nghĩa (Đăk Nông) tôi thấy: Điện bị mất thường xuyên, lượng mưa ở Gia Nghĩa cao hơn khu vực khác ở Tây nguyên rất nhiều vậy nhưng hết mùa mưa thì nước cũng rất nhanh hết, chỉ sau tết Nguyên đán là rất nhiều gia đình không còn nước để dùng thậm chí phải đi xa hoặc mua nước để sinh hoạt. Nhưng tôi cũng rất muốn Gia Nghĩa là một thị xã giàu đẹp.




Họ và tên: Lê hồng nhật
Địa chỉ: TP Hà Tĩnh
Email: nhatst@yahoo.com

Tôi có đọc cuốn phản biện xã hội của nhà báo Trần Đăng Tuấn, phó Tổng GĐ Đài truyền hình VN, vấn đề phản biện xã hội lẽ ra nên được bàn đến từ lâu. Có lẽ chính phủ VN và các nhà lãnh đạo cao cấp đã hiểu rất rõ vấn đề này. Khi công dân có tâm huyết họ đã dày công nghiên cứu và đưa ra vấn đề phản biện, chính phủ nên lắng nghe cái nhìn đa chiều, và người đứng đầu nên có sự quyết đoán tương đối. Bởi vì chế độ tập thể quyết định, vấn đề trách nhiệm chưa thực sự rõ ràng thì rất cần tính năng động chủ thể và vai trò cá nhân lãnh đạo. Đọc bài viết này, cũng là góp thêm một góc nhìn về việc quy hoạch khai thác quặng nhôm ở Tây Nguyên. Bài viết chỉ đứng ở góc nhìn khoa học và mang chủ kiến sâu sắc của tác giả, nên có thể chưa thật sự đủ thông tin và công bằng. Tuy nhiên đó là một cái nhìn đáng trân trọng. Mong chính phủ có thêm một góc nhìn trước khi tính toán xem xét lại vấn đề một cách tổng thể. Bởi như toà soạn nói, vùng đất Tây nguyên là vùng đất địa - chính trị, ảnh hưởng AN - QP và nhiều vấn đề văn hoá - xã hội quan trọng.

Họ và tên: Đoàn Minh Phong
Địa chỉ: 45 Hùng Vương, thị xã Đông Hà, Quảng Trị
Email: quynhchi9905@gmail.com

Bài viết của Nguyễn Trung rất sâu sắc và tâm huyết. Mong rằng bài viết này sẽ được các nhà hoạch định chiến lược trung ương và địa phương quan tâm, nghiên cứu nghiêm túc.

Họ và tên: longvn
Địa chỉ:
Email: longvn@yahoo.com

Bài viết phân tích thật sâu sắc, có đầy đủ chứng lý khoa học và tài liệu viện dẫn đầy sức thuyết phục. Điều này càng làm tôi thực sự không hiểu các nhà tư vấn cho dự án khai thác Bauxite Tây Nguyên họ viết gì, luận gì, tính toán gì trong đó để Dự án này mang tính khả thi ?
Họ và tên: Hải Âu
Địa chỉ: Hải phòng
Email:

Tôi rất tán thành những ý kiến tâm huyết đầy trách nhiệm của ông Nguyển Trung đóng góp cho sự phát triển đúng hướng của đất nước

Họ và tên: võ thanh hùng
Địa chỉ: kontum
Email: giahuykt@gmail.com

Bài báo của tác giả Nguyễn Trung rất hay và đã nêu lên được chiến lược phát triển cho Tây nguyên xanh mà không cần phải huỷ hoại môi trường và tài nguyên của đất nước.Ai đã từng lên Tây nguyên mới thấy tài nguyên rừng bị huỷ hoại như thế nào và hậu quả của nó thì ai cũng biết.Nói đâu xa nạn lũ lụt đang xãy ra ở các tỉnh Bình định,Quảng ngãi,Quảng nam,Phú yên...nguyên nhân cũng do phần lớn là nạn phá rừng trên Tây nguyên.
Họ và tên: Lê Đang
Địa chỉ: Miền trung
Email: ledang1256@yahoo.com

Bài viết của tác giã Nguyễn Trung rất sâu sắc,khoa học,thực tiễn và tổng hợp cao.Hiện nay một bộ phận không nhỏ trong nền kinh tế của nước ta có chiến lược phát triển theo xu hướng: ăn xổi, chụp giựt, làm giàu nhờ khai thác gỗ phá rừng(lậu và không lậu),làm giàu từ bán đất (gọi là bất động sản),làm giàu từ khai thác và bán khoáng sản tràn lan...tất cả lợi thế đó được thực hiện theo cơ chế XIN CHO. Như thế không thể phát triển bền vững được.
Họ và tên: Thach Van
Địa chỉ: 63 Thai Thinh, Ha noi
Email: thachvand@yahoo.com.vn

Bài viết phân tích thật sâu sắc, đầy tâm huyết, có một tầm nhìn thật lớn, thật dài hạn. Điều này chứng tỏ Việt nam không thiếu nhân tài, chứng tỏ nhân dân Việt nam hoàn toàn có thể làm ra ngày càng nhiều của cải trên đất nơi mình đang sinh sống. Điều quyết định bây giờ là Quốc hội, Chính phủ, Đảng phải chỉ đạo quyết liệt để thực hiện những những nhiệm vụ cấp thiết mà bài viết đã nêu rõ ỏ trên.

Họ và tên: Phạm Thế Thuý
Địa chỉ: Kho bạc NN Hà Nam
Email: thuypt01@kbnn.vn

Tôi không biết nói gì hơn, ngoài việc tích cực dõi nhìn theo cách nhìn nhận, phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề của tác giả ... Đó chính là "Đất với Người cùng một dòng suy nghĩ, ấy phải làm gì cho... " đất nước hôm nay và mai sau? !.
Đúng như lời tác giả đã nêu : "... cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay đã đi quá sâu vào kinh tế thượng nguồn và chưa chuẩn bị được bao nhiêu cho phát triển kinh tế hạ nguồn. Xu thế này rất nguy hiểm và cần sớm được đảo ngược". Những mong chờ quyết sách của nhà nước? ? ?...
Luôn trân trọng và cảm ơn tác giả - Một con người lao động chân chính !

Họ và tên:
Địa chỉ:
Email: bichhuebk@yahoo.com

Quê tôi là vùng đất đang được người ta tiến hành đại dự án khai thác boxit. Người dân cầm tiền đền bù của nhà nước cho những rẫy cà phê mơn mởn của mình mà đầy nỗi lo âu: sẽ mua đất ở đâu để tiếp tục canh tác? Vì Những khu đất màu mỡ nhất đã được dành cho dự án này và tiếp theo có thể là sân golf. iNếu dự án được triển khai, chúng tôi cũng không thể tiếp tục trồng trọt vì không còn nguồn nước. Hiện tại mùa khô ở tây nguyên ngày càng khắc nghiệt, nước không đủ cho sinh hoạt và tưới tiêu. Trong tương lai khi dự án Boxit đi vào hoạt động thì vùng đất này sẽ ra sao? Cảm ơn Tác giả Nguyễn Trung đã có bài phản biện sâu sắc, thẳng thắn và khoa học. Chúng tôi mong Chính phủ suy xét thấu đáo dự án, tìm ra phương án tối ưu nhất cho sự phát triển bền vững của Tây Nguyên
Họ và tên: Nguyễn Quyết
Địa chỉ: Hà Nội
Email: quyet_xn26@yahoo.com

Tôi nghĩ rằng dù một dự án đem lại lợi ích về kinh tế như thế nào thì cũng phải đặt vấn đề môi trường lên hàng đầu. Chúng ta đã có Vedan, Miwon... Đáng lẽ ra các cấp các ngành phải lấy đó làm bài học cho việc quản lý chứ. Cứ làm theo kiểu thấy lợi trước mắt mà quên đi hậu quả sau này thì đất nước ta rồi cũng thành một bãi rác khổng lồ mà thôi. Có thể chúng ta chưa thấy những hậu quả tác động đến đời sống chúng ta bây giờ nhưng con cháu chúng ta rồi sẽ ra sao. Chúng sẽ đánh giá như thế nào về những sai phạm của chúng ta bây giờ. Hãy hành động trước khi quá muộn. Đừng để một dòng sông đẹp, thơ mộng lại trở thành dòng sông chết như sông Thị Vải.
Họ và tên: Nguyễn Việt Dũng
Địa chỉ: DakLak
Email: vietdung94@yahoo.com

Chúng ta đang đứng trước sự đánh đổi giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và môi trường. Đây là vấn đề khó giải quyết đối với những nước đang phát triển như chúng ta. Tăng trưởng kinh tế chúng ta đã được lượng hoá, còn tác động đối với môi trường lại là vấn đề trong dài hạn và thường đem lại những hậu quả ngiêm trọng. Hy vọng các nhà lãnh đạo có cân nhắc thấu đáo để không xảy ra những hậu quả đáng tiếc cho can cháu chúng ta. Hãy tiến đến mục tiêu GDP "xanh".
Họ và tên: Quang Hưng
Địa chỉ: Seoul, Korea
Email: quanghungmt@gmail.com

Bài viết sâu sắc. Hay ở nhiều góc độ. Tôi tin tác giả Nguyễn Trung đã phải tìm hiểu và tham khảo rất nhiều tài liệu và thực tế các nước để viết bài này.

Là một Nghiên cứu sinh TS chuyên ngành Công nghệ Môi trường, tôi mong mỏi các chuyên gia Môi trường trong nước cùng lên tiếng đóng góp kinh nghiệp trong vấn để này. Đơn cử TS. Nguyễn Văn Phước, đương kim Viện trưởng Viện tài Nguyên Môi trường tại Tp.HCM. Khi còn công tác tại Khoa Môi trường Đh Bác Khoa Tp.HCM, TS.Phước đã từng lập 1 đề tài nghiên cứu tái chế "Bùn đỏ" và nhận Huy chương Sáng tạo KHoa học trẻ.
Họ và tên: Quang Tiến
Địa chỉ: Tp. HCM
Email: skyline_serip@yahoo.com

Một bài viết rất hay của một người một lòng vì sự phát triển lâu dài của đất nước. Mong Chính quyền sẽ xem xét kỹ lưỡng để có hướng đi phù hợp.

Họ và tên:
Địa chỉ:
Email: nguyendattb@gmail.com

Để viết được bài báo này, tác giả đã tốn bao công sức - Đó cũng chính là tinh thần vì đất nước vì dân tộc của tác giả. Tôi khâm phục kiến thức uyên thâm của tác giả và mong rằng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đọc được và có quyết sách đúng đắn cho phát triển Tây Nguyên cũng như đất nước. Nếu không, sẽ mang tội với thế hệ sau!

Tôi ở Lào Cai, và cũng đã thấy việc khai thác và xuất quặng thô sang Trung Quốc (APATIT, quặng sắt) đã huỷ hoại biết bao con đường, không biết số ngoại tệ thu được có đủ để làm lại đường hay không? Hơn nữa, có thông tin rằng nước bạn mua quặng về không phải để luyện, tinh chế mà đổ thành từng núi, đồi như vậy chẳng phải họ chở tài nguyên từ nước ta sang nước họ hay sao?

Chẳng phải ta tự làm giàu cho họ, làm nghèo cho ta hay sao? Đúng như tác giả nói, thời đại này Việt Nam chúng ta không thể phát triển kinh tế dựa trên sản phẩm thượng nguồn nữa mà cần hoạch định chiến lược phát triển cho đất nước dựa trên lợi thế so sánh của đất nước. Như vậy VN mới không tụt hậu ngày càng xa so với khu vực và thế giới!
Họ và tên: Lê Minh Phương
Địa chỉ: Bến Cát, Bình Dương
Email: leminh73@ymail.com

Trước đây tôi có xem tài liệu nói về vấn đề ô nhiểm môi trường khi khai thác bauxite nhưng không nghĩ vấn đề lại kinh khủng khi nhà nghiên cứu Nguyển Trung trình bày. Theo cá nhân tôi, khi ông Nguyển Trung trình bày vấn đề này, ông đã ngiên cứu rất kỹ và đặt biệt phải là một người rất có tâm huyết với đất nước mới thúc giục ông hành động như vậy, tôi thật sự xúc động về bài viết của ông. Mong rằng Đảng, Nhà Nước và Chính Phủ ta nên tạm dừng dự án này, sau có cử đoàn khảo sát có kinh nghiệm đi thực tế và có quyết định cuối cùng.

Mong lắm thay.
Họ và tên: Nguyễn Bình
Địa chỉ: Binh Duong
Email: bin200665@yahoo.com

Thật sự khâm phục bài viết của tác giả - Phân tích sâu sắc , lập luận chặt chẽ . Đây thực sự là một hiểm hoạ cho đất nước mà không chỉ tác giả mới nhìn nhận được mà bất cứ người VIệt Nam nào cũng vô cùng bức xúc lo lắng . Mong Thủ Tướng chính phủ có quyết định quyết liệt đình chỉ ngay dự án khai thác này phù hợp với lòng mong mỏi của hàng triệu con tim Việt Nam .

Họ và tên: trung
Địa chỉ: ha noi
Email: trung@gmail.com

Cảm ơn bài viết của bác Trung. Tôi thấy việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên có nhiều ý kiến phản đối. Sao không thấy các tập đoàn khai thác đưa ra những lợi ích của việc khai thác bauxite. Đảng và Nhà nước phải trả lời trước dân xem dự án cần triển khai tiếp hay dừng lại. Khi dự án triển khai và thất bại thì ai sẽ chịu trách nhiệm khi đã có rất nhiều cảnh báo của các nhà khoa học.

Họ và tên: Võ Nguyên Sơn
Địa chỉ:
Email: vonguyenson@gmail.com

Không biết nói gì hơn là: Thật đáng trân trọng và cảm phục!

Họ và tên: Nguyễn Lê Quốc
Địa chỉ: 23A Nguyễn Thị Minh Khai, Bảo Lộc, Lâm Đồng
Email: cooclenguyen@gmail.com

Xin cám ơn tác giả về bài phân tích sâu sắc với đầy đủ các lập luận và chứng cứ cần thiết. Tôi cũng là một con dân của Tây Nguyên. Được sinh ra và lớn lên ở Tây Nguyên nên tôi hiểu thế nào là các biến đổi môi trường của vùng đất mình đang sinh sống. Khí hậu Tây Nguyên đã khác rất xa trước đây, hậu quả tất yếu của một quá trình dài khai thác rừng theo lối hủy hoại, tận diệt.
Ngay ở quê tôi hiện nay cũng có một mỏ khác thác quặng Bauxit với quy mô nhỏ nhưng cũng có thể thấy ngay dòng suối "máu" mà nước rửa quặng Bauxit thải ra. Từ đó có thể mường tượng ra một viễn cảnh tồi tệ cho môi trường như thế nào nếu tiến hành khai thác trên quy mô lớn.
Còn về vấn đề chiến lược phát triễn cho Tây Nguyên, thiết nghĩ cần phải có một cái nhìn tổng thể về quy hoạch, phát huy tối đa các lợi thế rõ ràng của Tây Nguyên:
1. Rừng: phát triễn công nghiệp trồng rừng thương mại kết hợp với chế biến gia công các sản phẩm đồ gỗ đồ nội thất có giá trị thương mại cao, định hướng vào phát triễn các công nghệ chế biến gỗ tiên tiến nhất của thế giới. Xây dựng các thương hiệu đủ mạnh để cạnh tranh toàn cầu. Đây là một thế mạnh cần phát huy mạnh mẽ và triệt để hơn nữa.
2. Khí hậu: Tây Nguyên được thiên nhiên ưu đãi cho một hệ thống khí hậu khá ôn hòa, đây là một lợi thế so sánh với rất nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á cho việc phát triễn du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng rất độc đáo và chỉ có ở Tây Nguyên. Tất nhiên lợi thế này sẽ được phát huy tối đa nếu ta chỉ xét đến thị trường trong nước và trong khu vực Động Nam Á hoặc khi xét đến các thị trường các nước ôn đới khác nếu ta biết kết hợp với các vùng du lịch lân cận như Nha Trang, Phan Thiết, Vũng Tàu. Đặc điểm lợi thế thứ hai ngoài nhiệt độ của hệ khí hậu Tây Nguyên là độ ẩm cao, đây là một đặc điểm tốt cho việc phát triễn công nghiệp dược phẩm dựa trên việc phát triễn vùng dược liệu nấm, vi sinh kết hợp với việc phát triễn công nghệ sinh học. Có thể nói đặc tính khí hậu lạnh ẩm của Tây Nguyên là một lợi thế rất lớn mà không phải bất kì một quốc gia ôn đới nào cũng có được. Trước đây, một người bạn Nhật của tôi đã hỏi tôi về điều đó. Rất tiếc là hiện nay chúng ta vẫn chưa chú trọng phát huy thế mạnh này.
3. Nông nghiệp: Phần lớn cư dân Tây Nguyên đều là nông dân, đời sống ất khó khăn, công nghiệp chế biến của vùng hầu như ở trình độ rất thấp. Chúng ta nên phát huy hai lợi thế về nông nghệp của Tây Nguyên như sau: Thứ nhất, kết hợp với ưu thế về khí hậu hãy phát triễn một vùng rau và nông sản ôn đới độc đáo theo hướng an toàn, sạch phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu đến các thị trường khó tính đòi hỏi tiêu chuẩn cao về độ an toàn như Nhật Bản hay Âu Châu chẳng hạn. Chúng ta nên khai thác lợi thế này để xây dựng hẳn cho nông sản trong vùng một thương hiệu đạt uy tín toàn cầu về độ an toàn và chất lượng, đây sẽ là một lợi thế cạnh tranh rõ ràng so với sản phẩm cùng chủng loại từ Trung Quốc, vốn đang bị tẩy chay trên toàn thế giới. Thứ hai là phát triển hệ thống vùng nguyên liệu và công nghiệp chế biến các sản phẩm cây công nghiệp như trà, cà phê, hồ tiêu và cao su để tao ra các sản phẩm có thương hiệu bán ra thị trường với giá trị gia tăng cao thay vì nguyên liệu thô như hiện nay. Tây nguyên đang sở hữu một vùng nguyên liệu khá lớn nhưng sản phẩm của chúng ta không có lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới vì các lí do như độ đồng đều về chất lượng, độ an toàn ... Thiết nghĩ chúng ta nên có một quy hoạch tổng thể trên quy mô vùng và một cơ chế quản lý kiểm soát chặt chẻ thay vì manh mún tự phát. Nên chú trọng và công tác chọn lọc nghiên cứu giống và quy trình sản xuất. Một ví dụ rất rõ là hiện nay, tại Tây Nguyên, đang có một số trang trại trồng trà do Đài Loan đầu tư, họ đưa cây giống, quy trình sản xuất và công nghệ chế biến của họ vào. Kết quả là sản phẩm làm ra cũng được đóng mác Đài Loan và có giá cao gấp vài chục lần sản phẩm của chúng ta. Như vậy có thể thấy tiềm năng về cây công nghiệp chúng ta không thiếu, cái thiếu lớn nhất của chúng ta là cách quản lí khai thác sử dụng ưu thế này. Thiết nghỉ chúng ta nên quy hoạch chặt chẻ, đồng thời nghiên cứu và áp dụng các loại giống cây trồng mới đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao kết hợp với quy trình sản xuất chặt chẻ và công nghệ chế biến ở trình độ tiên tiến của thế giới để sản phẩm của chúng ta làm ra có giá trị gia tăng cao. Hãy làm sao để gắn bó nông dân Tây Nguyên với đất Tây Nguyên một cách bền vững thay vì phải phập phù theo giá cả nguyên liệu của cà phê, trà, hạt tiêu, cao su,... thế giới.
Tóm lại, trăn trở với việc phát huy tất cả các lợi thế của Tây Nguyên còn rất nhiều, nhưng chừng đó cũng có thể thấy rõ Tây Nguyên không nhất thiết phải phát triển dựa trên công nghiệp Bauxit thiếu bền vững. Nói một cách vui vẻ là chúng ta chỉ cần làm sao thu đủ tiền điện chạy máy lạnh để biến một không gian rộng lớn như Tây Nguyên ở một khu vực nhiệt đới thành một khu vực có khí hậu ôn đới là đã thành công lắm rồi. Chúc vui!


Họ và tên: Phan Cự Nhân
Địa chỉ: TP Hồ Chí Minh
Email: nhanphc@yahoo.com

Tôi thật sự cảm phục và xin được bày tỏ lòng kính trọng đối với bác Nguyễn Trung. Bác đã nói ra hết "ruột gan" của mình. Về chuyên môn, những điều Bác nói đáng lẽ phải là công việc của các Bộ và các cơ quan tham mưu. Những góc nhìn của bác đã phơi bày những "bí ẩn" đằng sau việc khai thác quặng nhôm ở Đắc Nông. Tôi tin rằng Lãnh đạo Đảng, Nhà nước sẽ xem xét cẩn thận và có những quyết định có lợi nhất cho đất nước.

Họ và tên: Phạm Anh Vũ
Địa chỉ: Pleiku
Email: sky_uot00@yahoo.com

Cảm ơn vô cùng về bài viết của Bác, Tây nguyên với thật nhiều nguồn tài nguyên nhưng rồi liệu những mỏ quặng đó có làm cho người dân ở đây bớt nghèo bớt khổ hay khi đi vào khai thác rồi chỉ làm giầu thêm một số tổ chức cá nhân còn hậu quả thì đổ xuống đầu người dân nơi đây, cả cho thế hệ mai sau phải gánh chịu.?

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Hiếu
Địa chỉ: Hà Nội
Email: mycloseh@yahoo.com

Xin góp thêm 1 tiếng nói nhỏ nhoi đồng tình với quan điểm của tác giả, đồng thời gửi gắm nhiều niềm tin vào quý báo sẽ "cộng hưởng" tiếng nói của tác giả đến xã hội và nhất là đến những đồng chí mà như bác Hồ đã dạy"là nô bộc của dân"!

Họ và tên: Lê Minh Đức
Địa chỉ: Hoà Bình
Email: Minhducfarm@gmail.com

Chúng ta không thể đào đất đem đi bán - kể cả dưới hình thức khai thác khoáng sản - để vừa thu hẹp và vừa hủy hoại không gian sinh sống vốn đã vô cùng chật hẹp so với dân số nước ta, lại vừa tạo ra cấu trúc kinh tế giam hãm đất nước trong lạc hậu, giữa lúc kinh tế ngày nay là của thời đại khoa học công nghệ và kỹ thuật, thời đại kinh tế tri thức và thời đại toàn cầu hóa. Than và dầu xuất đã quá nhiều rồi, chẳng bao lâu nữa, có thể ngay những năm đầu của thập kỷ 2010, nước ta sẽ phải nhập những thứ này.

Tôi hiểu thông điệp của bác Nguyễn Trung qua những dòng tâm huyết và quyết liệt này là: Nếu dự án khai thác boxit Tây nguyên được triển khai, thì thế hệ sau này sẽ lên án thế hệ chúng ta là thiển cận, huỷ hoại "đất nước", môi trường sống của con cháu. Vậy hãy lắng nghe để có những quyết định đúng đắn trước khi quá muộn.

Họ và tên: Phạm Gia Minh
Địa chỉ: Hà nội
Email:

Một công trình nghiên cứu đầy trách nhiệm công dân, lòng yêu nước yêu dân tộc và rất thuyết phục . Tôi sợ một điều là đằng sau quyết định vội vàng của một số cấp thẩm quyền có bóng dáng của những cuộc vận động hành lang do một số nhóm lợi ích tiến hành. Nhưng Tây nguyên là của cả dân tộc và đất nước này chứ không phải của nhóm người nào ! Nếu khai thác Bauxit ở Tây nguyên thì VN rõ ràng rơi vào thế thiếu điện kinh niên và sẽ PHẢI MUA ĐIỆN BỔ SUNG TỪ TQ ! tức là ta bi lệ thuộc về năng lượng trong khi còn nhiều bàn cãi về việc TQ xây các công trình thủy điện ở thượng nguồn sông Mêkông và sông Hồng. Khi đã thiếu điện thì chỉ còn cách là đồng ý để phía TQ xây để sau đó VN mua điện mà thôi . Phải nghĩ lại về việc hệ trọng này khi chưa quá muộn !

Họ và tên: Dzung Tran
Địa chỉ: Chung cư Miếu Nổi,
Email: tuan_hds2003@yahoo.com

Tây Nguyên là một vùng đất có vị trí chiến lược về quân sự và khu vực cân bằng sinh thái của Việt Nam. Không thể biến Tây Nguyên thành vùng đất chết bằng việc khai thác quặng bauxit. Thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải gánh chịu những tác hại nặng nề không thể khắc phục được vì những hành động thiếu trách nhiệm của chúng ta hôm nay. Hãy cẩn trọng khi ra 1 quyết định có ảnh hưởng lâu dài cho trăm năm về sau.
Họ và tên:
Địa chỉ:
Email: hodiepvn@hotmail.com

Bài viết thể hiện trách nhiệm lớn lao với Tây Nguyên nói riêng và Viet Nam nói chung. Các phân tích, dẫn chứng, kết luận rất khoa học, logic. Xin chân thành cảm ơn bác Nguyễn Trung. Xin đề nghị những người có tâm huyết, các nhà khoa học hãy góp ý với Chính Phủ để dừng dự án hủy hoại môi trường này. Điều quan trọng là Chính Phủ có đủ dũng cảm để dừng dự án khi mà đã vội vàng phê duyệt.

Họ và tên: Nguyễn Bình Phương
Địa chỉ:
Email: nguyenbinh162@yahoo.com

Trước đây nghe báo chí đưa tin sẽ cho khai thác boxit ở Tây Nguyên tôi cũng lấy làm vui mừng cho đất nước khi có thêm nguồn vốn để đầu tư đất nước. Và cũng tán thành mặc dù cũng có nghe những lời cảnh báo về ô nhiễm môi trường. Nhưng sau khi đọc xong bài viết này tôi mới giật mình và tôi đã thật sự bị thuyết phục bởi sự sâu sắc cùng lý lẽ thuyết phục đầy tâm huyết của tác giả. Xin chân thành cảm ơn tác giả bài viết Nguyễn Trung. Và mong bài viết này sẽ đến được tay người có chức trách, họ sẽ biết cần phải làm gì. Việt Nam sẽ phát triển, nhưng sẽ phát triển một cách bền vững, tăng trưởng xanh. Chứ không phát triển bằng mọi giá rồi sau này con cháu chúng ta sẽ phải lãnh hậu quả. Vụ Vedan chính là bài học cho chúng ta. Chỉ hại nhiều chớ lợi ích chẳng bao nhiêu.

Họ và tên: Trịnh Thanh Phi
Địa chỉ: Lý Nam Đế, Hà Nội
Email: trinhthanh38@yahooo.com

Tôi đọc rất chăm chú bài viết của Nguyễn Trung và thật sự xúc động trước tâm huyết, trách nhiệm rất cao của tác giả với sự phát triển bền vững của Tây Nguyên. Tác giả không chỉ nêu lên trách nhiệm của cả nước hôm nay phải giữ cho được một Tây Nguyên mãi mãi xanh, sạch, đẹp, giàu mạnh mà quan trọng với kiến thức, sự hiểu biết rộng, sâu , tác giả đã giúp cho bạn đọc có cơ sở để hiểu sâu sắc nguy cơ, hiểm hoạ biến Tây Nguyên thành đại công trường khai thác bau xit ...

Với giá trị toàn diện của Tây Nguyên về sinh thái rừng, môi trường, du lịch, kinh tế đồng cỏ, về giá trị của không gian văn hoá đặc sắc, đặc biệt giá trị chiến lược về Quốc phòng-An ninh ...tôi rất nhất trí với tác giả Chính phủ nên có điều tra cơ bản làm một đề án chiến lược tổng thể cho phát triển Tây nguyên và đề án ấy phải công khai cho các nhà KH, dân góp ý, tu chỉnh và Chính phủ trình để Quốc hội bàn phê chuẩn là đề án chiến lược cấp Quốc gia. Không nên để một vài tập đoàn và từng tỉnh muốn làm dự án nào cũng được. Phải bàn cách tích cực nhất để giữ lấy Tây nguyên theo hướng phát triển bền vững, xanh, sạch, đẹp mãi vẫn thấm đậm chất sử thi , chất hùng ca giàu truyền thống văn hoá , lịch sử cách mạng của cao nguyên Tây nguyên.
Họ và tên: Duc Anh
Địa chỉ:
Email: Boy_in_dark88@yahoo.com

Bài viết của tác giả vô cùng súc tích.Là một SV còn đang ngồi trên ghế nhà trường tôi hoàn toàn tán thành nhứng lập luận và phê bình của tác giả. Liệu các nhà làm lãnh đạo có nghĩ rằng, chỉ khoảng 20-30 năm nữa thôi,chính thế hệ con cháu của mình sẽ phải đối mặt với những sai lầm mà mình có thể mắc phải lúc này. Do vậy, tôi cũng tha thiết mong các nhà lãnh đạo hãy thực sự sáng suốt, tiếp thu ý kiến của nhân dân và các chuyên gia. Vấn đề ô nhiễm MT ở nước ta hiện nay đã quá cao rồi, giải quyết còn khó nữa là, xin hãy đừng làm cho MT thêm ô nhiễm.
Họ và tên: nguyễn minh
Địa chỉ: HA NOI
Email: chang_trai_codon_007@yahoo.com

Bài viết đầy trách nhiệm và sâu sắc. Là một người trực tiếp tham gia thi công giai đoạn đầu của dự án bauxit Lâm Đồng tại Lộc Thắng - Bảo Lộc - Lâm Đồng. Tôi cho rằng NN đang triển khai dự án với ý chí chính trị nhiều hơn là khoa học. Nếu ai từng đến Lộc Thắng sẽ càng cảm nhận rõ hơn.
Họ và tên:
Địa chỉ:
Email: quang421@yahoo.com

Một bài viết đáng để cho mỗi người Việt nam chúng suy ngẫm và hành động một cách tỉnh táo trong tiến trình phát triển hội nhập. Hãy tôn trọng ý kiến phản biện của các nhà khoa học trong việc phát triển tây nguyên. Hãy hiểu cho đúng nghĩa "Làm giàu trên đất của tác giả" và "Tây nguyên phải là chiến lược phát triển của cả nước chứ không thể của một tỉnh nào".

Họ và tên: Thanh Thúy
Địa chỉ: Gò Vấp - HCM
Email: danthanhly@yahoo.com

Cảm ơn tác giả Nguyễn Trung rất nhiều.
Tôi đã khóc khi đọc bài viết của anh. Tôi khóc vì tôi là đứa con của của Tây Nguyên, khóc vì đã có người lên tiếng cho 4 triệu người dân ở Tây Nguyên, mà đa số họ là những con người dân tộc thiểu số, sống lam lũ, mang màu xanh cho Tây Nguyên - Một nơi mang nét đặc trưng riêng mà không nơi nào trên toàn lãnh thổ Việt Nam có được.

Một bài viết súc tích, đầy dẫn dụ. Tôi đã tìm hiểu nhiều về chuyện này nhưng giờ đây tôi mới tìm được bài viết mà dường như đã nói lên được bao ý nghĩ trong đầu mình, một người con Tây Nguyên.

Xin anh hãy mang sự hiểu biết của mình, tấm lòng mình, giương cao ngọn bút để ngăn chặn việc khai thác Bauxite, một việc làm mà theo tôi có lợi trước mắt nhưng lâu dài thì không thể tượng tượng nổi ảnh hưởng của nó cho nhân dân Tây Nguyên nói riêng và toàn thể Việt Nam nói chung.

Tôi hy vọng còn được đọc những bài viết như thế này nữa.

Xin cảm ơn.
Họ và tên: nguyen tuan
Địa chỉ: 191 lê duẩn
Email: tuan@yahoo.com

Thực tế tôi thấy bài viết này quá hay và quá đúng. Và qua bài viết này tôi thấy có 1 vấn đề có thể là vấn đề sâu xa. Đó là chúng ta phải đặt 1 câu hỏi lớn. Quặng nhôm , và nhôm chúng ta xuất đi đâu, cũng như than tôi dám chắc 1 điều rằng sẽ xuất sang Trung quốc. Chúng ta đừng tự biến mình thành cái bãi thải khai thác quặng của Trung quốc. Hãy phát triển tiềm năng của mình trên góc độ khác.

Tại sao chúng ta không giữ gìn tài nguyên của mình đến khi thực sự cần mới khai thác nó. Tàn phá môi trường, đầu tư vào những ngành công nghiệp nặng không tạo ra giá trị trí tuệ là 1 hành động ngu ngốc trong thời điểm này. Vốn mất nhiều, tài nguyên mất, nhân công mất, giá trị không cao, không tái sản xuất được sau khi khai thác.

Trong khi đó thì bỏ rơi các ứng dụng công nghệ cao, bỏ rơi gần như hoàn toàn các ngành mũi nhọn, không mạo hiểm cho vay theo các ý tưởng hoặc đầu tư sản xuất theo công nghệ mới, đặc biệt là ngành công nghệ thông tin. Hoặc có cho vay cho đầu tư nhưng lại đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước, nơi mà không thể phát triển lên được do tư duy kém và tham nhũng hoành hành.

Họ và tên: phung nhien
Địa chỉ: hcm
Email: phungnhien@yahoo.com

Bài viết nêu ra khá chi tiết và sâu sát. Vấn đề là người có trách nhiệm nên có cái nhìn dài hạn, tầm nhìn rộng không những cho 5 năm, 10 năm mà phải cho cả thế hệ sau. Không thể với bài toán giải quyết việc làm cho chừng đấy con người, để rồi sau đó mất mát còn nhiều hơn thế nữa.

Chúng tá hãy nhìn sang Singapore, một đất nước nhỏ bé và có thể là không có tài nguyên gì nhiều nhưng họ đã phát triển hơn chúng ta. Vì sao như vậy? Vì họ có cái nhìn đúng, có chiến lược rõ ràng. Họ biết nước họ đang ở đâu, có gì và cần phát triển cái gì.
Họ và tên: Công Dân
Địa chỉ: Hà Nội
Email:

Vô cùng cảm ơn bác Nguyễn Trung,bài viết của bác đã nói giùm biết bao người có những băn khoăn, lo lắng khi biết có dự án khai thác bauxit ở Tây nguyên.
Tôi nghĩ rằng giờ đây người dân đã lên tiếng,trí thức đã lên tiếng, còn những người trong cuộc như những nhà đầu tư cho dự án,lãnh đạo các tỉnh Tây nguyên, bộ trưởng bộ KH và ĐT, Thủ tướng chính phủ cũng cần có ý kiến phản hồi để giải toả nỗi bức xúc này.

Chúng ta đều là những con người yêu đất nước này, non sông này và cùng làm việc để Việt nam phát triển bền vững, đúng hướng, để lại cho đời sau một "giá trị Việt nam". Một lần nữa xin cám ơn bác Nguyễn Trung. Chúc bác nhiều sức khoẻ.
Họ và tên: Việt Lâm
Địa chỉ: Hà Nội
Email: lampv.86@gmail.com

Ủng hộ bài phân tích nhiệt tình, rất hay và sâu sắc

Họ và tên: Xuan Thao
Địa chỉ:
Email: xuanthao29@yahoo.com

Hoan nghênh báo Vietnamnet rất tiến bộ khi đăng tải bài viết sâu sắc, tâm huyết của một công dân thể hiện có trách nhiệm cao đối với đất nước. Đất nước Việt Nam là của toàn dân chứ không phải của riêng một người, một nhóm người, một tập đoàn kinh tế nào cả. Sự hủy diệt khủng khiếp môi trường của đại công trường này sẽ tàn phá Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói riêng, bên cạnh đó lợi ích kinh tế của dự án mang lại chưa chắc đã hơn so với các dự án Tây Nguyên xanh khác. Tôi mong rằng Chính Phủ sẽ sáng suốt khi lựa chọn các dự án phù hợp với sự phát triển kinh tế của Tây Nguyên.
Họ và tên: Tân Tiến
Địa chỉ: TP.HCM
Email: khanhhung098@yahoo.com

Thật là khủng khiếp khi hình dung ra Tây nguyên - một cao nguyên hùng vĩ của đất nước trở thành một bãi khai thác quặng bô-xít khổng lồ, là nơi gây ra các lọai bệnh nguy hiểm và gây tác hại nặng nề về môi trường cũng tới cả 1 vùng cao nguyên tuyệt đẹp của Việt Nam ta. Mong Thủ Tướng Chính phủ hãy lắng nghe và có quyết sách thật đúng đắn như khi quyết về dự án nhà máy thép ở Vịnh Vân Phong (Khánh Hòa).
Họ và tên: tuan quang
Địa chỉ:
Email: tuanquangtuan65@yahô.com

Nghèo la nỗi nhục của 1 quốc gia, dân tộc, nhưng không thể phát triển kinh tế mà hủy họai môi trường sống của đất nước, để lại những dòng sông chết, cánh rừng trơ trụi cho thế hệ mai sau. Phát triển kinh tế như vậy , chẳng khác nào ta xây căn nhà giữa bãi rác mà sống. Xin Chính phủ hãy lắng nghe những ý kiến của các nhà khoa học .

Họ và tên:
Địa chỉ:
Email: phuocanh2008@ymail.com

Tây nguyên đẹp, hùng vỹ và rất nhạy cảm. Đừng hủy hoại Tây nguyên. Khoáng sản chưa khai thác thì còn đó để dành cho con cháu. Của để dành càng lâu càng quý và với sự phát triển của khoa học và công nghệ, con cháu sẽ có cách khai thác hiệu quả hơn và ít ảnh hưởng tới môi trường.

Là công dân của nước Việt, tôi rất tự hào vì đất nước đã sản sinh ra những người như bác Nguyễn Trung và tôi tin sẽ còn rất nhiều người như bác, mong các vị hãy mạnh dạn đem trí tuệ và tâm huyết ra giúp nước.
Họ và tên: Vũ công Ngữ
Địa chỉ: 110 ngõ 40 Tạ quang Bửu ,p .BK ,Hà nội
Email: ctfe@fpt.vn

Tôi cầu xin những người chịu trách nhiệm,câc cơ quan chủ quản xét duyệt cho việc thực hiện dự án ,các bác,các chú,các anh chị đang xúc tiến việc triển khai "dự án nhôm Tây nguyên " hãy dành một chút thời gian ( vài giờ,vài ngày...) , bình tĩnh lắng nghe, xem xét, đánh giá những ý kiến đã nêu ra với tấm lòng nhân ái rộng rãi của những người tốt bụng, dũng cảm để có thể đi đến một kết luận thích đáng, để đất nước và các thế hệ ( bây giờ &mai sau ) có thể tin ở tấm lòng của các bạn.
Họ và tên: Dao Manh Luong
Địa chỉ:
Email: manhluong@hn.vnn.vn

Bài viết quá hay, tổng thể và rất có sức thuyết phục. Hy vọng các Lãnh đạo Đảng và Nhà nước có quyết định đúng đắn. Cảm ơn Tác giả và VNN đã nêu ra.

Họ và tên: Lê Tuấn
Địa chỉ: Tổ 18,phường Duyên hải,Thành phố Lào cai.tỉnh Lào cai
Email: letuannhatlc@yahoo.com.vn

Tác giả Nguyễn Trung dã nêu một góc nhìn về phát triển đất nước.Thử hỏi nếu không bán dầu, bán than đi thì nước ta sẽ phát triển ra sao.Tây nguyên là của cả nước chứ không phải là của một vài tỉnh, một vài tập đoàn Vậy tỉnh, tập đoàn không phải là đât nước sao. Nếu không phải vì những đấu đá cá nhân hoặc lợi ích một bộ phận nào đó thì bài viết của anh trong góc hẹp chưa thấy hết tốc độ phát triển của công nghệ, của khoa học nên khó nói lắm.Có điều kiện tranh luận với anh nhiều.

Họ và tên: Đỗ Hoàng Minh
Địa chỉ: Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá
Email:

Không thể và không nên tàn phá Tây nguyên.

Có thể nói Tây nguyên là nóc nhà của một nửa miền đất nước. Nếu so sánh dự án thép vịnh Vân Phong thì lợi ích kinh tế của dự án thép còn lớn hơn nhiều. Nhưng vì lợi ích nghìn năm của đất nước Thủ tướng chính phủ đã khẳng khái từ chối; Hoan hô Thủ tướng. Vậy thì không có cớ gì để người ta lại tàn phá vùng đất thiêng ấy của đất nước.
Họ và tên: Nguyễn Thế Huân
Địa chỉ: Đồng Nai
Email: nthehuan@yahoo.com.vn

Tôi rất cảm ơn anh đã cho tôi nhiều kiến thức về bô xít của Việt Nam và tình trạng khai thác, sản xuất và tiêu dùng, những điều lợi và hại. Tôi có đọc về bô xít của VN từ lâu ở trên báo và không còn nhớ rõ ai viết chỉ biết rằng nước ta có mỏ bô xít vào lớn nhất thế giới! Ai ngờ cái mà ta thu lợi từ bô xít sẽ không đủ để bù lại cái thiệt cả về môi trường lẫn văn hóa. Tôi chắc rằng với bài viết này Đảng và Nhà nước sẽ cân nhắc và sẽ có quyết định đúng như với vịnh Vân Phong.
Họ và tên: Bạn đọc
Địa chỉ:
Email: cntt.gmail@gmail.com

Bài viết rất hay với lập luận dựa trên số liệu và thực tế tại các nước. Đã đến lúc Bộ Tài Nguyên Môi Trường và Bộ Kế hoạch & Đầu Tư, Bộ Công Thương ... cần có tiếng nói chuyên ngành để phán quyết dự án này ở khía cạnh Môi Trường và hiệu quả kinh tế.

Xin hãy quyết định vì tương lai con em chúng ta...
Họ và tên: Hoàng Anh Thư
Địa chỉ: Quy Nhơn
Email: anhthu_bcvtbd@yahoo.com

Tôi thật vui khi đọc bài viết này. Môi trường bị phá hoại đồng nghĩa với chúng ta không có tương lai. Tôi tin các nhà Lãnh đạo sẽ có quyết sách đúng đắn.

Họ và tên: Diep Hoang Phuc
Địa chỉ: Dak Lak
Email: Hoangphuc.inexim@yahoo.com

Tôi là người con của Tây Nguyên, sinh ra và gắn bó với mảnh đất bazan màu mở này. Tôi thấy cuộc sống của bà con các dân tộc Tây Nguyên ngày càng ấm no hơn với những vườn cà phê, cao su bạt ngàn. Khung cảnh Tây Nguyên rất đẹp với những thác nước hùng vĩ....Vì vậy xin đừng làm gì để thế hệ tương lai phải gánh chịu hậu quả.
Họ và tên: Phan Si Canh
Địa chỉ: Hoang cau Ha noi
Email: phancanh807@hotmail.com

Xin vô cùng cảm ơn Bác Nguyễn Trung, Nhà văn Nguyên Ngọc, T.S Nguyễn Thành Sơn những tác giả đã có các ý kiến đóng góp vô cùng tâm huyết và khoa học về việc bảo vệ môi trường sống vật chất và phi vật chất của vùng đất Tây nguyên quý giá.
Họ và tên: công dân
Địa chỉ:
Email: o.hay2008@yahoo.com

Cảm ơn tác giả về một bài viết hay và nhiều lý lẽ thuyết phục. Có một câu hỏi mâu thuẫn là: nếu không khai thác than-khoáng sản thì TKV sẽ làm gì?

Họ và tên: Văn Lâm
Địa chỉ: Hà nội
Email: Manh_23450@yahoo.com.vn

Mặt trời và biển cả và nền văn hoá bốn nghìn năm là các lợi thế viêtnam cần tập trung khai thác.Chúng ta cần học tập Nhật bản và singapor trong việc khai thác các lợi thế địa kinh tế.Đất chật người đông thì phải đặt mục tiêu gìn giữ môi trường lên hàng đầu mới có không khí để thở và nước để uống.Sẽ chẳng là gì nếu chúng ta giầu có hơn nhưng đổi lại chúng ta phải sống trong hoang vu không có màu xanh cây cỏ với bầu không khí đặc quánh bụi bặm và khí độc!Phải coi việc huỷ hoại môi trường ,chính sách kinh tế huỷ hoại môi trường là tội ác chống lại con người!!!

-->đọc tiếp...